Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA TRONG CƯƠNG LĨNH 2011 VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY

 ThS. Trương Văn Khanh

Bàn về chủ nghĩa tư bản (CNTB) ngày nay là một trong những nội dung được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đề cập tới. Với vai trò là nền tảng lý luận, tư tưởng và chính trị, Cương lĩnh định hướng cho việc xem xét, đánh giá về CNTB hiện đại, qua đó thấy được đằng sau sự phát triển của CNTB đương đại là những mặt trái và bản chất của phương thức sản xuất này.

Các nhà kinh điển C.Mác và Ph.Ăngghen khi phân tích về CNTB đã chỉ ra: từ khi mới ra đời, CNTB đã cho thấy tính ưu việt của nó. Đó là một bước tiến vĩ đại về phía trước trên con đường phát triển của xã hội loài người. Nó giải phóng lực lượng sản xuất khỏi “gông xiềng” trói buộc của quan hệ sản xuất cũ, tạo ra khả năng to lớn để phát triển nền sản xuất xã hội. Nó mở đường thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đưa con người tiến tới những thành tựu vĩ đại mà toàn bộ sự phát triển của lịch sử loài người hàng nghìn năm trước đó chưa bao giờ có. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) đóng vai trò công cụ lịch sử làm cho tiến trình văn minh công nghiệp thay thế văn minh nông nghiệp, đã có tác dụng tiến bộ to lớn. Nhưng CNTB không phải là hình thái xã hội vĩnh hằng, khi nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa sẽ bị hình thái xã hội thích ứng với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất mới thay thế. Sự phát triển của đại công nghiệp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất TBCN sẽ phát triển nhanh chóng, tuy nhiên không thể biết được lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ nào, với công nghệ gì thì sẽ chín muồi để xóa bỏ phương thức sản xuất TBCN. Tuy vậy, với bản chất của CNTB là bóc lột giá trị thặng dư, theo đuổi lợi nhuận cao là tác nhân kinh tế chủ yếu dẫn đến sự khẳng định và phủ định chính CNTB. Chủ nghĩa tư bản làm cho lực lượng sản xuất phát triển cao chưa từng thấy trong lịch sử, song quá trình đó không tránh khỏi những khuyết tật như khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát… Sự phát triển của các mâu thuẫn đối kháng trong xã hội là tất yếu và đây là tiền đề cho một cuộc cách mạng mới ra đời.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen, nghiên cứu CNTB từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền, V.I. Lênin đã chỉ ra bản chất kinh tế, chính trị của CNTB độc quyền. Trên cơ sở đó, Lênin khẳng định sự phát triển của CNTB độc quyền tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành CNTB độc quyền nhà nước. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự dung hợp, kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế, thể chế thống nhất. Bản chất của nó được thể hiện trên ba nội dung cơ bản là: sự kết hợp về con người giữa tổ chức độc quyền với bộ máy nhà nước; sự hình thành sở hữu tư bản độc quyền nhà nước và sự điều chỉnh kinh tế của nhà nước thông qua các công cụ và chính sách kinh tế.

Theo cách nói của Lênin, hiện nay trong chủ nghĩa tư bản khuynh hưeớng “phát triển vô cùng nhanh” nổi trội hơn so với khuynh hướng ngừng trệ, thối nát vốn có của nó. Lênin cũng chỉ ra, CNTB độc quyền nhà nước vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển, song đó là sự phát triển trong khuôn khổ CNTB và tiềm năng páht triển đó không phải là vô hạn(1). Càng phát triển, mâu thuẫn càn sâu sắc phức tạp. Như vậy, bản thân các nhà kinh điển cũng đã thấy được khả năng phát triển của chủ nghĩa tư bản trong một thời gian nhất định.

Trải qua quá trình phát triển, CNTB ngày nay đã có những bước phát triển mới và tạo dựng được một cơ chế tự điều chỉnh bao gồm các yếu tố như: cạnh tranh, độc quyền, sự can thiệp của nhà nước và hoạt động của các tổ chức cộng đồng dân cư phi chính phủ. Cơ chế này tác động đến mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, văn hóa, đạo đức, lối sống, phương thức ứng xử của con người ở mọi cấp độ, nhờ đó CNTB hiện đại có khả năng thích ứng linh hoạt với những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước tư bản cũng như trên thế giới (2). Bên cạnh đó, sự phát triển về lý thuyết kinh tế cộng với sự phát triển về khoa học kỹ thuật đã cho phép CNTB hiện đại tận dụng triệt để và áp dụng vào sản xuất, phân phối sản phẩm; vào quản lý, điều tiết nền kinh tế những tiềm năng mà cuộc cách mạng khoa học đã và sẽ tạo ra còn chưa khai phá hết. Đây là nhân tố quan trọng đảm bảo thành công cho việc tiếp tục tái cấu trúc lại nền kinh tế. Hơn nữa, phương thức sản xuất TBCN trở nên năng động hơn với sự kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa nhà nước và thị trường, cơ cấu kinh tế có sự biến đổi lớn kéo theo sự biến đổi về cơ cấu lao động, lao động trí óc, lao động trong các ngành dịch vụ ngày càng tăng. Việc tổ chức trong các đơn vị sản xuất có sự thay đổi mạnh mẽ, quan hệ giữa chủ và thợ cũng có những thay đổi nhất định căn cứ vào quyền làm chủ tri thức và kỹ năng lao động của người làm thuê. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chủ và thợ ít nhiều tạo nên một sự “bình đẳng” nào đó, mâu thuẫn trong nhiều trường hợp có phần dịu đi. Người lao động có thể trở thành những cổ đông, tham gia vào một số khâu trong quản lý xí nghiệp, công ty và có những quyền nhất định trong sản xuất, quản trị kinh doanh và phân phối. Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, CNTB đã nổi lên những hiện tượng mới. Phương thức sản xuất này vẫn còn sức sống nhất định, mâu thuẫn nội tại của CNTB hiện không quyết liệt đến mức dẫn tới tình thế cách mạng. Bên cạnh đó, chúng ta “chưa đánh giá hết khả năng co giãn của cơ cấu kinh tế TBCN, cũng như tính linh hoạt của những người kinh doanh tư bản biết di động, tiến thoái, đồng thời vẫn còn giữ được vị trí của họ”(3). Giai đoạn hiện nay, CNTB hiện đại đã đi rất xa trong quá trình toàn cầu hoá sản xuất xã hội và nhất thể hoá kinh tế. Sự điều tiết của tư bản tư nhân đối với các quá trình kinh tế gắn chặt với sự điều tiết của nhà nước tư sản thông qua công cụ luật pháp - hành chính - kinh tế - xã hội hết sức đa dạng. Một cơ chế siêu quốc gia đặc biệt, có chức năng điều tiết mâu thuẫn chính trị và kinh tế của CNTB đã được thiết lập. Mặc dù cơ chế này chưa hoàn chỉnh, nhưng nó cũng đã góp phần giải quyết một số vấn đề của CNTB.

Thấy được những sự biến đổi mới của CNTB, Đảng ta đã nhận định “Hiện tại, CNTB còn tiềm năng phát triển”. Vậy, phải chăng những biến đổi mới, những biểu hiện mới của CNTB đồng nghĩa với việc quay trở lại thời kỳ quan hệ sản xuất TBCN vẫn đang phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại? Câu hỏi này động chạm đến một vấn đề lý luận khá phức tạp: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dưới chế độ TBCN mang tính đặc thù, khác với mâu thuẫn này trong các phương thức sản xuất trước CNTB. Nếu như dưới các chế độ trước CNTB, một khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất nó sẽ “kìm hãm” sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mặc dù không thuận lợi song lực lượng sản xuất mới với công nghệ mới vẫn ra đời trong lòng xã hội phong kiến nhưng chỉ phát triển đột biến, bùng nổ sau khi nó phá tan quan hệ sản xuất cũ và kiến trúc thượng tầng cũ. Dưới CNTB, khi đã mâu thuẫn với quan hệ sản xuất TBCN, lực lượng sản xuất vẫn có thời kỳ phát triển bùng nổ, mặc dù phát triển xen kẽ với khủng hoảng, trì trệ, phát triển dẫn đến những hậu quả kinh tế - xã hội chống lại bản thân sự phát triển như phân hóa giàu nghèo, phá hoại môi trường sinh thái… Quan hệ sản xuất TBCN có tính linh hoạt cao hơn nhiều so với các quan hệ sản xuất trước đó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản: “Giai cấp tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất. Trái lại, đối với tất cả giai cấp công nghiệp trước kia thì việc duy trì nguyên vẹn phương thức sản xuất cũ là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của họ. Sự đảo lộn liên tiếp của sản xuất, sự rung chuyển không ngừng trong tất cả các quan hệ xã hội… làm cho thời đại tư sản khác với tất cả các thời đại trước”(4). Vì vậy, ngay khi đã mâu thuẫn sâu sắc với lực lượng sản xuất nó vẫn chưa hết khả năng tự “co dãn”, tự điều chỉnh để thích nghi với lực lượng sản xuất mới, qua đó thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển trong thời kỳ nhất định. Thực tế đã chứng tỏ CNTB vẫn có khả năng tiếp tục tồn tại và phát triển trên nền tảng của lực lượng sản xuất “hậu công nghiệp”.

Tuy nhiên, cho dù có điều chỉnh, có khoác trên mình những “tấm áo choàng lộng lẫy” như thế nào đi nữa thì bản chất của CNTB vẫn không hề thay đổi, đúng như nhận định của Đảng ta “về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”. Sự áp bức, bất công đó thông qua sự thống trị của CNTB độc quyền và CNTB độc quyền nhà nước. Sự thống trị đó không chỉ đóng khung trong từng quốc gia, dân tộc mà đã được quốc tế hóa. Sự áp bức, bóc lột được che đậy dưới nhiều hình thức khác nhau và ngày càng tinh vi hơn trước; hình thức bóc lột cũng luôn có sự thay đổi dựa trên việc áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Sự bóc lột vượt khỏi biên giới quốc gia và được triển khai trên phạm vi quốc tế thông qua nhiều hình thức.

Hiện nay, trong xã hội tư bản sự phân cực ngày càng trở nên gay gắt, số người giàu chiếm tỷ lệ ít nhưng nắm giữ phần lớn của cải xã hội, trong khi người nghèo chiếm phần lớn dân số nhưng số tài sản mà họ có chẳng là bao. Tình cảnh đó càng trở nên rõ nét trong cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế năm 2008 và cuộc khủng hoảng nợ công đang diễn ra tại một số nước trên thế giới. Cuộc khủng hoảng này sẽ khó khăn hơn, biểu hiện rõ nét nhất là kinh tế các nước phát triển đang gặp khó khăn, giá cả lạm phát, lương của người lao động bị cắt giảm, tỷ lệ người thất nghiệp gia tăng. Nhưng những tập đoàn tư bản và các ngân hàng thương mại, những người trực tiếp gây ra tình trạng tồi tệ của nền kinh tế và gián tiếp bần cùng hóa người lao động thì không phải trả giá cho những việc làm của họ. Chỉ có người lao động đang trực tiếp nếm trải những khó khăn của nền kinh tế. Có thể nói, chính CNTB đã đưa đến hậu quả và người dân các nước phải gánh chịu hậu quả của phương thức sản xuất đó gây ra. Hàng triệu người mất nhà cửa khi không còn đủ khả năng trả nợ ngân hàng. Hàng triệu người mất việc làm, phải sống dưới mức nghèo khổ và không nhận được sự chăm sóc y tế cơ bản. Trong khi đó, gánh nặng nợ công ở một số quốc gia đang đè nặng lên vai những người lao động và tầng lớp trung lưu. Cơn bão này chắc chắn sẽ còn càn quét mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. Tất cả đang xảy ra tại một số quốc gia giàu có nhất thế giới.

Nguyên nhân của tình trạng trên bắt nguồn từ những mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản mà bản thân nó không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ, trật tự TBCN, như Đảng ta khẳng định “Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc”(5). Mâu thuẫn đó được biểu biện cụ thể giữa sản xuất có khả năng vô hạn và tiêu dùng có khả năng thanh toán bị hạn chế, giữa tư bản và người lao động làm thuê, giữa tư bản và tư bản, trong một nước và trên phạm vi quốc tế, giữa các nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản với các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, các mâu thuẫn mới cũng ngày càng thể hiện rõ, đó là mâu thuẫn giữa sức sản xuất có khả năng phát triển vô hạn với sự giới hạn của các nguồn tài nguyên và môi trường, giữa nhu cầu nhất thể hóa và toàn cầu hóa với lợi ích của từng quốc gia và của toàn bộ cộng đồng các nước, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu khi chuyển đổi cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Tính gay gắt của các mâu thuẫn hiện nay thể hiện nổi bật ở những giới hạn mà CNTB đang gặp phải trong cùng một lúc chưa từng thấy. Đó là, tài nguyên hạn chế trong khi lực lượng sản xuất có khả năng phát triển vô hạn; guồng máy sản xuất có khả năng mở rộng không ngừng trong khi khả năng thanh toán vẫn còn bị hạn chế; tốc độ tăng năng suất lao động và tăng trưởng nói chung không thể cao và vẫn còn nguy cơ thấp; bất bình đẳng xã hội gia tăng trên phạm vi quốc gia và quốc tế với nguy cơ ngày càng trầm trọng; khủng hoảng kinh tế và tính không ổn định trên nhiều lĩnh vực; những mặt trái trên các lĩnh vực văn hóa, đạo đức chính trị, tình trạng bạo lực, tội phạm, xung đột sắc tộc, tôn giáo có nguy cơ phát triển trầm trọng, khó lường.

Những giới hạn không thể vượt qua nêu trên cho thấy, CNTB hiện đại vẫn đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với những nguy cơ của khủng hoảng về kinh tế, xã hội, chính trị, thậm chí nguy cơ một cuộc khủng hoảng toàn diện mới có thể xuất hiện. Do vậy, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta nhận định “Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của CNTB”. Từ nhận định này và từ những thực tiễn lịch sử của CNTB hiện đại có thể thấy, CNTB hiện đại trong khi chưa phát triển đến giai đoạn diệt vong gần kề nó, đang tiếp tục tiến triển một cách khách quan đến một xã hội khác cao hơn, bất chấp ý nguyện chủ quan của bất cứ lực lượng xã hội nào và do đó, trong lòng nó đang chín muồi dần không chỉ những tiền đề vật chất, kỹ thuật mà cả những mầm mống, những yếu tố nhiều mặt, những điều kiện ngày càng đầy đủ hơn cho sự ra đời một xã hội mới.

Ghi chú:

(1) GS. TS. Nguyễn Ngọc Long, Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực”, Nxb CTQG, H.2009, tr.374.

(2) PGS. TS. Đỗ Lộc Diệp, "Chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XXI", Nxb KHXH, H.2003, tr.52.

(3) http://www.vov.vn/ "Nhận thức về chủ nghĩa tư bản hiện đại" bài viết của GS.TS. Vũ Văn Hiền.

(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1994, tr.600-601.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, "Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI", Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.68.

Nguồn: http://tcnn.vn/Plus.aspx

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét