Ngọc Quang
(GDVN) - Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng giành độc lập, thống nhất đất nước...
Ngày 3/2/1930 đánh dấu
mốc son lịch sử của dân tộc bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 85 năm
đã qua đi, Đảng đã chứng tỏ được vai trò lịch sử của mình, dẫn dắt dân tộc đấu
tranh giành độc lập tự do, thống nhất tổ quốc và từng bước xây dựng xã hội mới,
xã hội chủ nghĩa.
Nhân dịp kỉ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam khởi đăng loạt bài về truyền thống vẻ vang của Đảng. Bắt đầu bằng chặng đường thành lập và thực hiện sứ mệnh giải phóng dân tộc, trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Đảng Cộng sản ra đời - bước ngoặt lịch sử của dân tộc
Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước
ta. Chúng lập ra chế độ thống trị tàn bạo, thi hành các chính sách cai trị
chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai
đắc lực. Chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo,
chia rẽ dân tộc, tôn giáo... mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man.
Chúng vơ vét tài nguyên
và bóc lột sức lao động nhân dân Việt Nam “tới tận xương tủy”, thực hiện
chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta, thực
hiện chính sách ngu dân… khiến đời sống của dân ta bị bần cùng hóa, nền
kinh tế bị què quặt, gây nên những hậu quả nghiêm trọng kéo dài nhiều
năm.
Trong tình hình
ấy đã xuất hiện nhiều ngọn cờ khởi nghĩa chống lại chế độ áp bức
của thực dân Pháp và nhà nước phong kiến vốn cũng làm tay sai cho
thực dân Pháp. Liên tiếp từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm phong
trào yêu nước nổi lên, trong đó phải kể đến phong trào Cần Vương, phong
trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân… nhiều nhân sĩ yêu
nước đã xuất hiện, trong đó phải kể tới Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... Thế
nhưng tất cả các phong trào đấu tranh ấy đều bị thất bại, bị thực dân
Pháp đàn áp tàn bạo.
Trong tình hình
ấy, ngày 5/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra
đi tìm đường cứu nước. Trong nhiều năm trời bôn ba, Người phải lao động
cực khổ, nhưng luôn giữ vững ý chí tìm đường giải phóng dân tộc,
mang lại đời sống ấm no cho nhân dân Việt Nam.Người
tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau này trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, được biết đến với tên gọi Nguyễn Ái
Quốc.
Người tham gia hoạt động trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc
địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam qua các báo Người
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân. Người viết tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925) làm chấn động dư luận quốc tế, đồng thời tác
phẩm cũng là nguồn động viên tinh thần mạnh mẽ, khích lệ tinh thần
đấu tranh giải phóng áp bức của các dân tộc thuộc địa.
Tháng 12/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu
(Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại đây, Người tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông,
sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và
viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường kách mệnh (1927)... một
mặt tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, mặt khác tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và
các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân
dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói
mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách
mạng vô sản, làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước,
trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính
trị lãnh đạo. Trong giai đoạn này đã có 3 tổ chức thành lập gồm: Đông
Dương Cộng sản Đảng (thành lập tại Bắc Kỳ ngày 17/6/1929); An
Nam Cộng sản Đảng (thành lập ở Nam Kỳ, Mùa thu năm 1929); Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn (thành lập ở Trung Kỳ, ngày 1/1/1930).
Tuy vậy, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản
hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu
bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc,
người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ
năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng
sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 6/1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất
ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các
hội quần chúng... đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam.
Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo được hội nghị thông qua đã xác định: Cách mạng
việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để
thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh,
đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Dấu ấn đậm nét trong cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã quy tụ
được các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng
to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân – phong kiến. Trải qua 15 năm
gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng ta tiến hành cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ
thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại trong gần một
thế kỷ.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cả biển người
im lặng phăng phắc lắng nghe từng câu, từng chữ của Bác. Trước toàn thể quốc
dân đồng bào và nhân dân thế giới, Hồ Chủ tịch đã trịnh trọng tuyên bố: “Nước
Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước
tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới với mục
tiêu giành độc lập tự do, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, thế nhưng
nhà nước non trẻ ngay lập tức phải đối mặt với ba loại giặc: giặc đói,
giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đã làm cho hơn 2 triệu đồng bào
chết đói; hơn 95% người dân mù chữ. Trong lúc ấy, ở miền Bắc có hơn 20 vạn
quân Tưởng, miền Nam trên 15 vạn quân Pháp lăm le xâm lược nước ta.
Trước tình hình ấy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo Đảng ta kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn,
toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt
qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm tưởng như không qua được, củng cố, giữ vững
chính quyền cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Bất chấp nguyện vọng của nhân dân ta và mặc
dù chúng ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp
nước ta lần nữa. Lich sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go
mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, với những từ ngữ đanh
thép: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, dựa vào sức mạnh là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn giành thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, làm nên trận Điện Biên Phủ chấn
động địa cầu.
Hình ảnh cờ đỏ sao
vàng tung bay trên trận địa Điện Biên Phủ mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc
ta. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam cũng khích lệ tinh thần cho các
dân tộc đang chịu áp bức vùng lên giành độc lập, đập tan chế độ chủ
nghĩa thực dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Lần đầu tiên
trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng
mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một
thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế
giới.
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý, trong
điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn
kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác-Lênin để
giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp
công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và
giành tự do, độc lập.
Giành chiến thắng
vang dội trước thực dân Pháp, nhưng hai miền đất nước vẫn bị chia cắt
bởi đế quốc Mỹ đã lợi dụng thời cơ xâm chiếm miền Nam. Trong hoàn
cảnh cam go ấy, Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 đã đi vào lịch sử nhân loại. Ảnh tư liệu
Trong tình hình ấy, miền Bắc giữ vai trò
quyết định, làm hậu phương vững chắc để giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Trong cuộc kháng chiến kéo dài 21 năm ấy, đế
quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh
khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo
tài tình của Đảng với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ, chiến đấu kiên cường, từng bước giành thắng lợi oanh liệt bằng cuộc
tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.
Thắng
lợi lịch sử ấy đã kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo
dài 30 năm trời ròng rã và mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam
yêu chuộng hòa bình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét