Nguyễn Văn Nguyên
Ngay từ khi
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, rồi hoạt động ở
Quốc tế Cộng sản, Người luôn tuân thủ sự chỉ đạo và phân công của Quốc tế Cộng
sản, nhưng cũng sáng tạo dựa trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và Đông
Dương. Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô sản
thế giới, nhưng trong điều kiện là một nước thuộc địa (mất quyền dân tộc),
Người luôn khẳng định, cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Vì
vậy, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930), với mục
tiêu giải phóng dân tộc, Người đặt vấn đề dân tộc lên trên vấn đề giai cấp.
Người kiên trì quan điểm của mình cho đến khi đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc chính thức trở thành đường lối của cách mạng Việt Nam.
Năm 1941, sau
khi về nước nắm vai trò lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và chuẩn bị lực lượng
giành chính quyền, vấn đề lợi ích dân tộc càng được đề cao trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy”(1), quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Tư tưởng phục vụ quyền lợi dân tộc
của Người ngày càng được quán triệt và thấm nhuần trong những người cộng sản
Việt Nam và đấy chính là động lực vô cùng quan trọng để Đảng và nhân dân ta
vượt qua những khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng
Tám thành công để nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Từ khi giành
được chính quyền, Hồ Chí Minh cho rằng, sự viện trợ, giúp đỡ của bầu bạn quốc
tế là rất quan trọng nhưng không thể trông chờ vào đó mà cần tự lực cánh sinh,
tự lực tự cường: “...muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy
mình đã”(2). Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước là thách thức lớn đối
với vận mệnh dân tộc. Vì vậy, việc tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa là rất cần thiết nhằm góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu của
cách mạng Việt Nam. Bằng những hoạt động tích cực, Hồ Chí Minh góp phần củng cố
tình đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em, tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong quan
niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lợi ích dân tộc còn được coi là tiêu chí
để phân biệt bạn - thù, là cơ sở để phân hóa kẻ thù và tập hợp lực lượng. Người
cho rằng: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là
bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối
với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ
quốc và đồng bào là kẻ thù”(3).
Từ cuối thập
niên 50 của thế kỷ XX, đứng vững trên lập trường nguyên tắc, chú trọng vận
động, thuyết phục, kiên trì chờ đợi, đấu tranh có lý có tình, cùng với nghệ
thuật ứng xử khôn khéo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp quan trọng vào việc
giữ được quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với hai nước lớn xã hội chủ nghĩa là
Liên Xô và Trung Quốc. Trong xử lý mối quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng,
phải bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài của dân tộc, phải tăng cường tình
đoàn kết quốc tế, tránh gây mất đoàn kết. Người nói: “Vì đoàn kết mà phải tranh
đấu... phải làm sao trong Đảng và trong nhân dân giữ được lòng yêu mến và biết
ơn các nước bạn anh em”(4). Luôn đặt lợi ích của Việt Nam lên trên hết, nhưng
Hồ Chí Minh kiên quyết chống tư tưởng dân tộc vị kỷ, dân tộc hẹp hòi. Thậm chí
đối với nước thù địch, Nguời cũng tính tới lợi ích của họ, ứng xử độ lượng.
Tháng 7-1946, trong thư gửi Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, Người khẳng định,
nếu nước Pháp không thừa nhận độc lập của Việt Nam, đó sẽ là một thiệt thòi cho
nước Pháp và cho cả nước Việt Nam nữa. Song đối với nước Pháp sự thiệt thòi sẽ
là vĩnh viễn.
Trong quan hệ quốc tế, đối với bạn bè, đồng chí của Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thuỷ chung, chân thành xây dựng mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Với những đối tượng cụ thể, Người tìm những điểm tương đồng để khơi dậy tình hữu ái và tinh thần hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, ít ra cũng làm cho họ không công khai chống lại ta, Hồ Chí Minh từng nhận xét về nhân dân Pháp, họ đều yêu chuộng những đức lành như: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Trả lời một nhà báo Mỹ, Hồ Chí Minh nói, Người đã đến nước Mỹ, hiểu nhân dân Mỹ rất trọng chính nghĩa và có nhiều tài năng. Nhân dân Việt Nam coi nhân dân Mỹ là bạn của mình; chúng tôi chống là chống chính sách can thiệp...
Một điểm
đáng lưu ý trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là, Việt Nam sẵn sàng mở rộng
hợp tác với tất cả các nước, trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Trong bản thông cáo về “Chính sách
ngoại giao của Chính phủ lâm thời”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vấn đề hợp tác
với từng đối tượng. Đối với các nước đồng minh chống phát-xít: “Việt Nam hết
sức thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái”. Đối
với kiều dân Pháp thực sự tôn trọng độc lập của Việt Nam thì tính mệnh và tài
sản của họ được bảo vệ theo luật pháp quốc tế, còn “riêng với chính phủ Pháp Đờ
Gôn, chủ trương thống trị Việt Nam, thì kiên quyết chống lại. Đối với các nước
láng giềng, như Trung Hoa, vốn có quan hệ lịch sử lâu đời thì “thắt chặt tình
thân ái, khiến hai dân tộc Việt - Hoa tương trợ mà cùng tiến hóa”, với Ai Lao
và Cao Miên cùng chung số phận với Việt Nam thì “tương trợ để thực hiện và củng
cố sự độc lập, giúp đỡ lẫn nhau để kiến thiết và sánh vai ngang hàng mà tiến
hóa”; Với các nước nhỏ khác đấu tranh vì độc lập dân tộc trên toàn cầu,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên
nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong xây dựng và giữ vững nền độc lập.
Có thể coi, Thông cáo chính sách ngoại giao (3-10-1945) như một giác thư của
Nhà nước Việt Nam gửi đến cộng đồng quốc tế, khẳng định những quan điểm dân
chủ, tiến bộ, nhân đạo, hòa bình và sẵn sàng hợp tác của nhân dân ta với cộng
đồng quốc tế. Các quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của
quan hệ quốc tế sau chiến tranh, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân các nước trên thế giới.
Bằng những
hoạt động tích cực của mình, Hồ Chí Minh đã làm cho bạn bè trên thế giới biết
đến khát vọng, ý chí độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam, bày tỏ quan điểm
thiện chí sẵn sàng hợp tác của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Tháng 1-1950, trong
Tuyên bố khi đi thăm nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thay mặt Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào
trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt
Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”(5). Quan điểm đó
vừa phù hợp với thực tế lịch sử khi đó, vừa giữ bản sắc truyền thống Việt
Nam, vừa đúng với luật pháp và quy định quốc tế. Do đó, giúp vừa phát huy được
tiềm năng sức mạnh của dân tộc, vừa tận dụng được sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế.
Ngày nay, quan
điểm của Hồ Chí Minh về hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi vẫn là một trong
những quan điểm mang tính quyết định đến thành công của ngoại giao Việt
Nam, đồng thời quan điểm đó còn mang tính thời đại, trở thành tư
tưởng chủ đạo trong hợp tác quốc tế của các nước trên thế giới.
Quán triệt và
vận dụng những tư
tưởng trên của Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định, lợi ích cao nhất của dân tộc và
cũng là lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; ra sức
phát triển kinh tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, giữ vững độc lập và thống
nhất. Bước sang giai đoạn mới, việc xác định lợi ích quốc gia dân tộc có ý
nghĩa đặc biệt quan trong.
Trong suốt 30
năm đổi mới, quan điểm của Đảng ta về lợi ích quốc gia, dân tộc là liên tục
và nhất quán, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc coi trọng mục
tiêu phát triển và đổi mới tư duy về mục tiêu an ninh là hạt nhân cốt lõi của
lợi ích quốc gia Việt Nam trong giai đoạn này. Lợi ích đó nhận được sự đồng
thuận cao của nhân dân và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Những thành công trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hoạt động đối ngoại thời gian qua đã
cho thấy nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia là đúng đắn.
Đảng ta xác
định lợi ích quốc gia dựa trên từng thời điểm lịch sử nhất định, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và xu hướng phát triển của tình hình thế
giới. Đảng ta đặt lợi ích và mục tiêu quốc gia thông qua mối tương quan lực
lượng và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Việt Nam với các đối tác tại một thời điểm
nhất định, trên cơ sở quan điểm của Đảng về bản sắc dân tộc cũng như các chuẩn
mực quốc tế. Thông qua đó, Đảng xác định nhu cầu và khả năng, thế và lực của
quốc gia, dân tộc, từ đó cụ thể hóa nội dung lợi ích quốc gia tại thời điểm
lịch sử tương ứng. Đồng thời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn gắn liền
với hạnh phúc của nhân dân, phồn vinh của quốc gia, chủ nghĩa nhân văn, nhân
đạo và điều đó trở thành giá trị độc đáo trong mục tiêu cách mạng của Việt
Nam.
Đảng ta hoạch
định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc,
tạo sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân
tộc, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động
lãnh đạo của mình. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên
tắc mà tất cả các hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải tuân thủ.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm về lợi ích quốc
gia nhất quán, xuyên suốt trên, về sự “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục
tiêu cao nhất”(6), trở thành kim chỉ nam trong đường lối phát triển đất
nước, nhất là đối với công tác đối ngoại của Đảng ta./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét