Vũ Quang Hiền
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng
sâu sắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế,
đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân
tộc khác. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc có những nội dung
cần được nhấn mạnh hơn, nhất là thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa, quyền
dân tộc tự quyết, đặc biệt là mối quan hệ không thể tách rời giữa độc lập dân
tộc và thống nhất đất nước.
1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề độc lập dân tộc, xoá
bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản
phương Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.
Trước khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đưa đại bác đến gõ cửa các quốc
gia phương Đông, thì những quốc gia này vẫn còn đang chìm nặng trong bóng tối
của chế độ phong kiến ở giai đoạn suy vong, với cấu trúc xã hội gồm hai giai
cấp: địa chủ phong kiến và nông dân. Dưới tác động của những chương trình khai
thác thuộc địa, các giai cấp này ở Việt Nam ít nhiều có sự biến đổi, những giai
cấp mới lần lượt ra đời: công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Tất cả các giai cấp đó
đều nằm dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Từ thuở thiếu thời, trước khi ra
đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã thấy được sự đối kháng giữa dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược qua các phong trào yêu nước của ông cha và
sớm hình thành chí hướng cứu nước. Những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc
đã nhận thấy sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc
địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ
quần chúng lao động (công nhân và nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp
trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của
người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do. Ngay giai cấp tư sản
Việt Nam cũng khác với giai cấp tư sản phương Tây, mặc dù vẫn là giai cấp bóc
lột nhưng không phải là giai cấp thống trị. Họ không phải là đối tượng cách
mạng, mà trái lại, có thể trở thành lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc[1].
Cuộc cách mạng ở thuộc địa là một cuộc đấu tranh dân tộc hay đấu tranh
giai cấp? Đâu là “cái cốt” của cuộc cách mạng ở thuộc địa? Trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, đã từng có luận điểm cho rằng: “thực chất của
vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề nông dân”, mà nông dân thì gắn với ruộng
đất, vì thế phải nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và cuộc đấu tranh giai cấp ở
thuộc địa. Với Hồ Chí Minh thì không phải như vậy. Người nhận thấy, yêu cầu bức
thiết nhất, trước nhất của xã hội thuộc địa là phải tiến hành cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội
tư bản chủ nghĩa phương Tây. Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa
thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Tuy
hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, nhưng quan
điểm của Nguyễn Ái Quốc có nhiều điểm không trùng hợp với quan điểm của Trung
ương Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, trong đó có vấn đề dân tộc ở thuộc
địa. Người phê phán sự không quan tâm đến cách mạng thuộc địa của một số Đảng
Cộng sản trên thế giới[2]. Người chỉ rõ thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc
địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.
Trong nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm
thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết người..., Hồ Chí Minh tập trung tố cáo
chủ nghĩa thực dân, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người
viết: “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản
thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm
ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v.”. “Nếu lối hành hình theo kiểu Linsơ của
những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen là một hành động vô nhân
đạo, thì tôi không còn biết gọi việc những người Âu nhân danh đi khai hóa mà
giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì nữa”[3]. Trong những bài có tiêu đề Đông Dương và
nhiều bài khác, Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo
của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế
quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể điều
hòa được. Sự áp bức, thống trị dân tộc càng nặng nề, thì phản ứng dân tộc sẽ
càng quyết liệt về tính chất, đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức.
Nghiên cứu tình hình Đông Dương, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Đằng sau sự phục tùng
tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ
bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[4]. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân đã tước
bỏ tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc địa.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V. I.
Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập
trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C. Mác và V. I. Lênin bàn
nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh bàn nhiều
về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong nhiều tác phẩm, nhất là tác
phẩm Đường kách mệnh, Người phân biệt ba loại cách mạng: cách mạng
vô sản, cách mạng tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc, xác định tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa là giải phóng dân tộc.