Thứ Năm, 16 tháng 12, 2021
VẤN ĐỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
Nguyễn Thị Chiên
Vấn đề quyền lực đã được đặt ra và nghiên cứu
từ thời cổ đại cho đến nay vẫn là vấn đề đang còn được các nhà khoa học chính
trị quan tâm nghiên cứu. Bởi lẽ, quyền lực là công cụ, phương tiện cơ bản nhất
giúp cho chủ thể nắm quyền có thể thoả mãn mọi nhu cầu, ý chí của mình. Điều đó
dẫn đến thực tế là chủ thể chính trị nào cũng muốn giành, giữ cho kỳ được quyền
lực để thực thi trong thực tế mọi nhu cầu và ý chí của mình. Do vậy, dù tự phát
hay tự giác, các chủ thể chính trị đều phải hiểu, phải có tri thức về quyền lực
chính trị.
Là lãnh tụ chính trị lỗi lạc của giai cấp công
nhân, hơn ai hết C.Mác và F.Ăngghen trong quá trình nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn để xây dựng học thuyết đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân
đã chỉ rõ bản chất của quyền lực chính trị nói chung, quyền lực chính trị của
GCCN nói riêng và con đường biện pháp để giai cấp công nhân xác lập quyền lực
chính trị của mình. Những tư tưởng này được C.Mác và F.Ăngghen phản ánh một
cách rõ ràng, khúc chiết trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Theo các ông “quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là bạo
lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”(1).).Vì vậy, giai
cấp công nhân, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải đoàn
kết thành giai cấp để thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống
trị và “với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản
xuất cũ, đồng thời với việc tiêu diệt chế độ sản xuất ấy nó cũng tiêu diệt luôn
cả những điều kiện của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt cả giai cấp nói
chung và cũng do đấy tiêu diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình”(Sđd,
t21, tr 628). Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai
cấp của nó, là một chế độ xã hội mà trong đó “Sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(2). Đó chính là bản
chất quyền lực chính trị của giai cấp công nhân.
Vấn đề đặt ra ở đây là:
Thứ nhất, tại sao giai cấp công
nhân có sứ mệnh lịch sử đó;
Thứ hai, để thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình giai cấp công nhân cần phải làm gì ?
Trả lời cho vấn đề thứ nhất, các ông chỉ rõ cơ sở để giai cấp công
nhân có thể trở thành giai cấp thống trị là: Lịch sử các xã hội có đối kháng
giai cấp là “lịch sử đấu tranh giai cấp”. Kết cấu xã hội của xã hội bao giờ
cũng phản ánh phương thức sản xuất đi theo với sự đối kháng giữa các giai cấp
mà nó vốn có. Phương thức sản xuất quyết định yếu tố tồn tại về mặt xã hội của
giai cấp. Vai trò của một giai cấp trong việc tổ chức lao động của xã hội bắt
nguồn từ đó.
Trên cơ sở ấy, C.Mác và F.Ăng ghen đã phân tích một
cách khách quan xã hội TBCN, đánh giá đúng đắn vai trò của CNTB, của giai cấp
tư sản và những thành tựu mà CNTB tạo ra. Tuyên ngôn vạch rõ: “Giai cấp tư sản
trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy mội thế kỷ, đã tạo ra những lực
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế lực
trước kia gộp lại” (3). Từ sự phân tích quá trình ra đời, tồn tại và phát triển
của CNTB, lột trần những mâu thuẫn nội tại, cố hữu của nó và sự đối kháng giai
cấp ngày càng tăng giữa tư sản và vô sản, hai ông đã rút ra kết luận quan trọng:
“Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu
như nhau”(4) và “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí đã giết mình,
nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những
người vô sản” (5). Bởi lẽ, “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các
giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp; Giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”.
MỘT SỐ TRỤC QUAN HỆ QUỐC TẾ NỔI BẬT NĂM 2017
Hồng Vân
(VOV5)
- Trung Quốc cho rằng Mỹ cần thích ứng với sự phát triển của Trung Quốc, đồng thời nhấn mạnh hợp tác là
sự lựa chọn đúng đắn cho cả hai bên.
Năm 2017 chứng kiến những thay đổi
nhanh chóng trong đời sống chính trị thế giới. Các trục quan hệ chủ chốt đều có những
diễn biến bất ngờ, thậm chí là đảo
chiều, gây ra không ít xáo trộn trong quan hệ quốc tế, phần nào định hình tương lai
của thế giới.
Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng
thống Mỹ Donald
Trump - Ảnh: Sky
Năm 2017 là một trong số ít năm có các mối quan hệ quốc tế biến động nhanh, khó lường khi những diễn biến 6 tháng cuối năm trái ngược với 6 tháng đầu năm. Đáng chú ý trong những biến động đó phải kể đến trục quan hệ Mỹ - Nga, Mỹ - Trung và Mỹ - EU.
Đảo chiều trong quan hệ Mỹ - Nga, Mỹ - Trung
Những tưởng quan hệ Nga - Mỹ năm 2017
sẽ có nhiều khởi sắc sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống nhưng những gì
diễn ra trên thực tế lại cho thấy quan hệ giữa hai nước đang rơi vào một vòng
xoáy đối đầu chưa có điểm dừng. Trong suốt chiến dịch tranh cử Tổng thống, ông Trump nhiều lần phát đi thông điệp
và cam kết sẽ nỗ lực cải thiện quan hệ với Nga nhưng những tuyên
bố này đã nhanh chóng bị cuộc điều tra về cái gọi là “Nga can thiệp vào cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ
năm 2016” phủ bóng đen.
Tổng thống Nga Vladimir Putin và người đồng cấp Mỹ Donald Trump nói chuyện bên lề hội nghị cấp cao APEC ở Đà Nẵng - Ảnh: Reuters
KIÊN ĐỊNH NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG VÀ KIM CHỈ NAM HÀNH ĐỘNG: CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PGS,TS
Nguyễn Vĩnh Thắng
(LLCT)- Tại Đại hội XI, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây
là một luận điểm quan trọng được khái quát từ thực tiễn phong phú, sinh động
của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cuộc cách mạng XHCN ở nước ta;
chỉ ra nguồn gốc sâu xa mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức, lãnh đạo được lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường, chỉ lối.
Vào giữa
thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lược và đặt ách thống trị của
chúng đối với dân tộc ta. Chúng đã câu kết với giai cấp phong kiến, địa chủ thống
trị nước ta vô cùng tàn bạo. Trong lúc vua quan nhà Nguyễn đầu hàng, thì nhân
dân ta đã anh dũng đứng lên chống xâm lược. Một số nhà nho yêu nước như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh... đã đi tìm đường cứu nước, nhưng không thành công, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra đều lần lượt thất
bại và bị đàn áp khốc liệt. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cho đến đầu thế kỷ
XX gặp bế tắc về đường lối cứu nước.)
Trong bối cảnh đó, ngày 5-6-1911, từ bến
Cảng Sài Gòn, với hoài bão lớn lao, Hồ Chí Minh đã quyết chí ra đi tìm đường
cứu nước, cứu dân. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Người đã đi đến rất
nhiều nơi, từ Pháp, Người đã đến nhiều nước khác ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ.
Và Người đã đến quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga, đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin, đến với bản Luận cương của Lênin và như Người đã nói “Hỡi đồng
bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”(1). Trong quá trình vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tổ chức lãnh đạo,
chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta giành được những thắng lợi to
lớn, Người tiếp tục khẳng định: chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những
là “cẩm nang” thần kỳ, không những là kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng
con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và CNCS.
Từ thực tiễn thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và trong
công cuộc xây dựng đất nước, nhất là từ thực tiễn phong phú, sinh động và những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành
được trong công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và CNXH, Đại hội IX
của Đảng nhấn mạnh: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tại Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(2). Đây là một luận điểm cực kỳ
quan trọng được khái quát rút ra từ thực tiễn phong phú, sinh động của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cuộc cách mạng XHCN ở nước ta, nó chỉ ra
nguồn gốc sâu xa của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam tổ chức, lãnh đạo được lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường,
chỉ lối.
QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA LỊCH SỬ TRONG “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” VÀ Ý NGHĨA CỦA CHÚNG
Phạm Văn Đức
Trên cơ sở trình
bày và phân tích quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về năm tiền đề của lịch sử,
tác giả khẳng định rằng: thứ nhất, cả năm tiền đề là những tiêu chí quan trọng
để phân biệt con người với con vật, trong đó bốn tiền đề ban đầu là nhu cầu cơ
bản và sản xuất, sự xuất hiện nhu cầu mới, việc tái tạo ra người khác, phương
thức sản xuất và hợp tác thuộc về những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội; thứ
hai, nhu cầu không chỉ là động lực mà còn là nguồn gốc, tức là cái khởi nguồn
của sự biến đổi và phát triển của lịch sử và thứ ba, ý thức là một trong những
nhân tố không thể thiếu được của lịch sử. Với ý nghĩa đó, có thể nói, “Hệ tư tưởng
Đức” là tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến một cách căn bản từ lập trường duy tâm
sang lập trường duy vật khi xem xét lĩnh vực xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Ảnh minh họa
Hệ tư tưởng Đức là một tác phẩm quan trọng đánh dấu sự chuyển biến của C.Mác và Ph.Ăngghen từ lập trường duy tâm sang lập trường duy vật và là mốc đánh dấu sự chín muồi của quan niệm duy vật về lịch sử. Điều đó được thể hiện trước hết ở cách chọn đối tượng nghiên cứu của các ông, đó là con người.