Nguyễn Trọng Phúc
Sự lãnh đạo của Ðảng trước hết ở sự bổ sung,
phát triển hoàn chỉnh hệ thống các quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc; ở
sự lựa chọn hình thức và phương pháp cách mạng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ
thể; ở sự tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang; ở sự nhận thức tình thế và thời cơ cách mạng để đưa quần
chúng vào hành động cách mạng; ở sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung, thống
nhất trong giờ phút có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi.
Ðể đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945)
đến thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, có ba thời điểm lịch sử thể
hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của Ðảng ta: đó là
các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hoàn
chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc; những quyết sách quan trọng cuối
năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước; quyết định
Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Ðảng toàn quốc tháng 8-1945.
Các Hội nghị Trung ương Ðảng (11-1939),
(11-1940) và nhất là Hội nghị Trung ương tám (5-1941) đã đề ra những quan
điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Trung ương 11-1939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên". "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập" (2). Hội nghị Trung ương tám do Hồ Chí Minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta" (3). "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" (4).
Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng
của toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức
Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội nghị Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Ðông Dương thì Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương
lập Mặt trận riêng của Việt Nam đó là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh). Tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận được
xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và bao gồm các đoàn thể cứu quốc. Ðảng lãnh
đạo Mặt trận bằng cách đưa quan điểm, chính sách vào các đoàn thể và hoạt động
của Mặt trận và thông qua các đảng viên tham gia Mặt trận và đoàn thể.
Ba là, Ðảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ
trang và căn cứ địa cách mạng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Ðảng chủ
trương phát triển lực lượng vũ trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ
địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại
các căn cứ địa lực lượng chính trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt
Minh ngày càng phát triển rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực
lượng vũ trang. Những vấn đề về chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt
ra và thực hiện ở vùng căn cứ địa cách mạng.
Bốn là, Ðảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để
giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị Trung ương
(11-1939) đã chủ trương: dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng
giải phóng dân tộc. Hội nghị trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc
cách mạng Ðông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang".
Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể "lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa
từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho
một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn" (5).
Các hội nghị Trung ương và
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích tình hình chiến tranh thế giới, âm mưu thủ
đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời cơ, chỉ đạo xây dựng lực
lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng Ðảng để Ðảng có thể hoàn thành sứ
mệnh lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc.
Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển
biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ, Ðảng và Mặt
trận Việt Minh đã chủ trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm võ khí đuổi thù
chung. Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội
cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian
rất gấp. Ta phải làm nhanh. Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân (22-12-1944).
Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt
bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Ðông Dương. Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời
ra bản chỉ thị lịch sử: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta
(12-3-1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu
hiệu là Ðánh đuổi phát-xít Nhật. Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước
mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ðây là thời kỳ tiền khởi
nghĩa, phải thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh
cho phù hợp. Sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng
phân tích thời cơ cách mạng và cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những
điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị
khủng hoảng, kẻ thù hoang mang không rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói
ghê gớm làm cho quần chúng căm ghét quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến
giai đoạn quyết liệt; Ðồng minh sẽ đổ bộ vào Ðông Dương để đánh Nhật. Ðó là sự
vận dụng tư tưởng của Mác và Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang phù hợp với thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều kiện để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung
ương nêu ra đã là định hướng quan trọng để các đảng bộ địa phương chủ động phát
động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị còn chủ trương phá kho thóc gạo của đế
quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy
ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng).
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cao trào cách mạng
phát triển mạnh mẽ. Tháng 4-1945 các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất
thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 4-6-1945, thành lập khu giải phóng Việt
Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ địa của cách mạng cả nước, hình ảnh của nước
Việt Nam mới. Tổ chức Việt Minh phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở
căn cứ địa, ở vùng nông thôn mà phong trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ,
nhất là phong trào công nhân, học sinh, sinh viên trí thức. Theo tư tưởng của
Ðề cương văn hóa 1943 của Ðảng, tổ chức văn hóa cứu quốc đã tập hợp đông đảo
các nhà văn hóa vào trận tuyến đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về
Tuyên Quang. Tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Ðảng
họp ngày 14 và 15-8-1945. Hội nghị của Ðảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào
cách mạng của toàn dân ta diễn ra sôi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu
hàng vô điều kiện (15-8). Ðảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới" (6). Mục đích cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc
lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: a) Tập trung
-tập trung lực lượng vào những việc chính; b) Thống nhất - thống nhất về mọi
phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; c) Kịp thời - kịp thời
hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu đấu tranh của Ðảng là Phản đối xâm
lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Hội nghị Ðảng toàn quốc công bố
mười chính sách của Việt Minh và nhấn mạnh chủ trương "Lập nên một nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập" (7).
Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh
số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng ta phải hành động cho nhanh, với
một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn
nhất định sẽ về ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng
khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(8).
Ngày 16-8-1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị
quyết về giành chính quyền toàn quốc và thi hành mười chính sách lớn của Việt
Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch. Thường trực Ủy ban gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn
Ðồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Ðức Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa.
Ủy ban dân tộc giải phóng là tổ chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ
Cộng hòa. Nghị quyết của Quốc dân Ðại hội nhấn mạnh mục tiêu: "Giành lấy
chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn
toàn độc lập"(9).
Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại
hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành
thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng
suốt và kịp thời của Trung ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết
định thắng lợi. Khi nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Ðảng, cần phải thấy rõ
tinh thần trách nhiệm cao, sự năng động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa
phương, tức các xứ ủy, tỉnh ủy, huyện ủy và tổ chức đảng ở cơ sở. Các cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa
xôi, điều kiện liên lạc khó khăn đã thể hiện điều đó. Vai trò của hệ thống tổ
chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, của các đảng viên kiên trung của Ðảng, từ
người lãnh đạo cao nhất đến người đảng viên ở cơ sở, đã bảo đảm cho Ðảng sự
lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất ở giờ phút quyết định của lịch sử.
Bài học về sự lãnh đạo của Ðảng trong Cách mạng
Tháng Tám là Ðảng đã đề ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, đã tập hợp
đoàn kết rộng rãi lực lượng của toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, đã lựa
chọn và kết hợp đúng đắn các hình thức tuyên truyền, tổ chức và phương pháp đấu
tranh thích hợp tạo nên sức mạnh tổng hợp, đã xây dựng, phát triển thực lực
cách mạng, thúc đẩy phong trào, đồng thời dự kiến và chớp đúng thời cơ hành
động. Trong việc thực hiện sứ mệnh nặng nề trước dân tộc và lịch sử, Ðảng đã
rất coi trọng xây dựng Ðảng về tư tưởng chính trị và tổ chức, rèn luyện phương
pháp đấu tranh và cách lãnh đạo. Trong Cách mạng Tháng Tám đã nổi bật năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng. Ðó là bài học quý báu cho nhiệm vụ xây dựng
Ðảng hiện nay và thực hiện vai trò lãnh đạo của Ðảng trong công cuộc đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét