Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

Những quan điểm cơ bản thể hiện tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới


                                                                          Đại tá, TS. Lê Hồng Điệp


TCCSĐT - Nghiên cứu tư duy mới của Đảng ta về những quan điểm cơ bản về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là việc vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện và hoàn cảnh mới nhằm: kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời, xử lý hiệu quả các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta, tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Kể từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc đã hình thành được phát triển qua các kỳ đại hội sau này, tập trung vào các vấn đề cơ bản là: Độc lập dân tộc; Chủ quyền quốc gia; Bảo vệ Tổ quốc gắn với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa

- hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng - an ninh gắn với xây dựng lực lượng trang theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Kế thừa tư duy mới về quan điểm xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh của các kỳ Đại hội trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”.

Đây là một trong những nội dung rất quan trọng trong Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong 30 năm qua (1986-2016) đã đạt được những thành tựu rất to lớn. Theo đó, nền kinh tế vượt qua được nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý… An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được cải thiện; chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao, chúng ta đang vững bước trên con đường đổi mới!

Quan điểm cơ bản thể  hiện sự phát triển tư duy lý luận, nhận thức thực  tiễn của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn. Trong mối quan hệ biện chứng, hữu cơ đó, độc lập dân tộc là mục tiêu, tiền đề, điều kiện tiên quyết để chúng ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Không có độc lập dân tộc thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng  minh rằng dưới  sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ tiến  lên chủ nghĩa xã hội, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột, đưa nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, lầm than đến địa vị làm  chủ xã hội, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu đẹp  văn minh, tiến bộ.

Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cách mạng Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; trong đó, thách thức gay gắt nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Mục đích của chúng là lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân Việt Nam đã xây dựng sau khi giành được độc lập, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất Tổ quốc sau 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975). Do đó, chúng ta phải “kiên quyết, kiên trì” đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, nhất là thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Thông qua đó, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng và sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với cách mạng Việt Nam nói chung, đối với quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Đây là một cuộc đấu tranh không khói súng nhưng đầy cam go, thách thức và hết sức quyết liệt, diễn ra từng ngày, từng giờ và trong thời gian tương đối dài. Vì vậy, toàn quân, toàn dân phải luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết và chủ động đấu tranh, đồng thời phải kiên trì thực hiện các biện pháp phòng, chống, không để xảy ra bạo loạn, khủng bố và các điểm nóng, giữ vững ổn định chính trị

- trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước. Nội hàm “kiên quyết, kiên trì đấu tranh” chính là tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung cốt lõi là: Xây dựng ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền phải gắn chặt với sự kiên trì, bền bỉ đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân để bảo vệ Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Đó chính là tính thống nhất biện chứng của vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh khi đất nước bị giặc ngoại xâm, chúng ta không chỉ kiên quyết đứng lên đấu tranh mà còn phải kiên trì đấu tranh thì mới giành được thắng lợi cuối cùng. Cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Lê kéo dài 10 năm, cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm đã chứng minh cho điều đó.

Nước ta có vị trí địa chiến lược trong khu vực. Từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước, Tổ quốc Việt Nam luôn bị các thế lực ngoại bang tìm cách xâm lược.

Do đó, lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước. Tinh thần kiên quyết đấu tranh vì nền độc lập tự do cho dân tộc “Không có gì qúy hơn độc lập, tự do” luôn gắn với thái độ kiên trì mềm dẻo “lấy chí nhân thay cường bạo”, luôn được các thế hệ người Việt Nam phát huy. Bởi lẽ, dân tộc chúng ta thường xuyên phải đương đầu với kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn hẳn nên chúng ta khó có thể giành thắng lợi nếu thiếu đi yếu tố “kiên quyết, kiên trì”. Trên thực tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh là phương châm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ta đối với tất cả các vấn đề có liên quan đến độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Kiên trì đấu tranh là phương châm chỉ đạo, hoàn toàn không mâu thuẫn với ý chí kiên quyết và không đồng nghĩa với tư tưởng nhân nhượng, thỏa hiệp. Chỉ có như vậy, chúng ta mới bảo đảm được lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh ở khu vực và trên thế giới.

Đặc biệt là vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng tình hình phức tạp ở biển Đông để kích động phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Chúng ta cần nhận thức rõ: Tình hình tranh chấp trên biển Đông là rất phức tạp, không thể giải quyết một cách nhanh chóng. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ. Chúng ta không thể nóng vội. Chúng ta phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn, những khác biệt bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (1982); Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), chủ động phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả các nguy cơ dẫn đến xung đột, làm phức tạp thêm tình hình.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng còn khẳng định: Phải đặt lợi ích quốc gia

- dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên sở bình đẳng, cùng lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc chính là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới  sự lãnh đạo của Đảng,  là sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đây là một trong những quy luật cơ bản giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong cả thời kỳ chiến tranh giải phóng và trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam   xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc là do rất nhiều yếu tố tạo thành, như: Chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và công  nghệ, sức mạnh của sự kết hợp  giữa con người và vũ khí, trang bị, giữa sức  mạnh của đất nước và sức mạnh  của quốc tế. Nhưng yếu tố giữ vai trò quyết  định bao giờ cũng là sức mạnh trong nước, sức mạnh dân tộc, mà biểu hiện tập trung nhất là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy chúng ta rằng: “Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết tranh đấu cho Tổ quốc họ thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ” và: “Muốn cách mạng thành công thì phải đoàn kết dân chúng lại…”, “phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải thống nhất”(1) Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là một bộ phận trong toàn bộ sức mạnh dân tộc và là nhân tố cơ bản nhất để tạo ra các nhân tố khác của sức mạnh dân tộc.

Mục tiêu trọng yếu quốc phòng - an ninh được Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Để đạt được những nội dung trên, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại thì sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định, từ việc xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung đến lộ trình, bước đi, giải pháp; cả trong xây dựng, khai thác, sử dụng, phát huy sức mạnh thời đại và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong thời gian tới, tình hình quốc tế và khu vực đang và sẽ còn có nhiều biến động phức tạp, khó lường, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chúng ta vẫn tiếp tục khai thác các nhân tố của sức mạnh thời đại, trên cơ sở kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

Lực lượng quốc phòng toàn dân và lực lượng an ninh nhân dân bao gồm con người, phương tiện vật chất và các khả năng khác được xây dựng để sử dụng vào việc răn đe, ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Mức độ huy động lực lượng quốc phòng và lực lượng an ninh của một quốc gia phụ thuộc trực tiếp vào mục đích, tính chất của sự nghiệp phòng thủ đất nước, vào bản chất của chế độ xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có. Do đó, ngay từ trong thời bình, chúng ta khẩn trương xây dựng, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tức là bố trí lực lượng toàn diện, toàn dân trên từng vùng lãnh thổ và trong cả nước một cách hợp lý nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét