Thứ Năm, 4 tháng 5, 2023

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

  PGS, TS. Phạm Duy Đức

(LLCT) - Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là một trong những mối quan hệ rất cơ bản phản ánh trình độ và chất lượng của sự phát triển bền vững đất nước. Bài viết góp phần khẳng định tính thống nhất và hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng thời, đặt ra một số vấn đề về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay, đưa ra những gợi ý giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, đặc biệt là chú trọng vai trò của chủ thể trách nhiệm trong việc xử lý mối quan hệ này.


Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay, việc phát triển bền vững đất nước phụ thuộc vào việc giải quyết hài hòa và hợp lý các mối quan hệ lớn mà Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã nêu là nhiệm vụ quan trọng. Trong đó có mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nhận thức toàn diện và sâu sắc về mối quan hệ này trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn.

1. Quan niệm về phát triển kinh tế và phát triển văn hóa

Phát triển kinh tếlà quá trình lớn lên nhiều mặt của nền kinh tế, bao gồm: tăng trưởng GDP; hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao thu nhập trên đầu người và chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế hiện nay được nhấn mạnh là phát triển bền vững nền kinh tế của mỗi quốc gia. Nội dung cơ bản của phát triển kinh tế gồm:

- Tăng trưởng kinh tế là điều kiện đầu tiên, bao gồm: gia tăng về quy mô sản lượng và năng suất trong nền kinh tế, diễn ra trong thời gian tương đối dài và ổn định;

- Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, thể hiện qua tỷ trọng giữa các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng, miền theo hướng tiến bộ, hợp lý hơn... Trong đó, tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương đối so với tỷ trọng đô thị, tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng;

- Thu nhập trên đầu người ổn định  và nâng cao hơn, đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện;

- Trình độ tư duy khoa học của xã hội phát triển;

- Nền kinh tế mở và năng động, giàu khả năng thích ứng;

- Là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những nhân tố nội tại quyết định.

Mục tiêu của phát triển bền vững là: đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về văn hóa tinh thần; sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội; sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Ba trụ cột của phát triển bền vững là: phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.

Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế không chỉ bao hàm tăng thu nhập bình quân đầu người mà phải hướng tới phát triển bền vững của cả hiện tại và tương lai, chú trọng cả ba nhân tố: kinh tế, xã hội và môi trường; duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập phải gắn với nâng cao chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói giảm nghèo. Tăng trưởng không nhất thiết phải đạt tốc độ cao mà cần ở mức độ hợp lý, bền vững.

Các nhân tố bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững gồm:

- Bảo vệ môi trường,

- Dựa vào sức mạnh nội tại,

- Bình đẳng trong thu nhập,

- Xác lập một thị trường lao động thống nhất,

- Xây dựng một hệ thống an sinh xã hội lành mạnh.

Như vậy, phát triển kinh tế bền vững phải gắn liền với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển con người.

Phát triển văn hóa là phát triển toàn diện và đồng bộ các thành tố cấu thành đời sống văn hóa của một quốc gia dân tộc.

Văn hóa là khái niệm đa nghĩa.

Thứ nhất, văn hóa được hiểu như là năng lực sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Do đó, văn hóa là phạm trù chỉ thuộc tính của con người (cá nhân và cộng đồng), đánh giá trình độ và chất lượng sống của con người trong hoạt động thực tiễn xã hội. Do đó, phát triển văn hóa là phát triển năng lực và phẩm chất của con người, của cộng đồng, kết tinh vào nhân cách, cốt cách, bản lĩnh của con người trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đây chính là nguồn gốc sản sinh ra các giá trị văn hóa vật chất và các giá trị văn hóa tinh thần, phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

Thứ hai, văn hóa được hiểu là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng dựa trên sự phát triển của cơ sở hạ tầng mà cốt lõi là kinh tế. Kinh tế là cơ sở, là điều kiện để phát triển văn hóa. Văn hóa phản ánh sự phát triển kinh tế - xã hội và có tác động năng động đối với tồn tại xã hội, đối với kinh tế. Vì vậy, muốn xây dựng và phát triển nền văn hóa thì phải phát triển kinh tế, chống chủ nghĩa duy tâm, giáo điều - muốn xây dựng nền văn hóa cao trong khi nền kinh tế còn thấp kém, lạc hậu.

Tuy nhiên, không phải chờ khi nào có nền tảng kinh tế cao mới xây dựng và phát triển nền văn hóa mới mà phải xây dựng từng bướctrong quá trình phát triển nền kinh tế. Cả V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh đến điều này trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới. Do vậy, phát triển văn hóa là phát triển các lĩnh vực liên quan đến đời sống tinh thần của xã hội, thống nhất với nền tảng vật chất là cơ sở kinh tế - xã hội để tạo nên sự phát triển đồng bộ và toàn diện của hình thái kinh tế - xã hội mới.

Thứ ba,văn hóa là một trong bốn lĩnh vực chủ yếu quốc gia: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: trong lĩnh vực kiến thiết nước nhà có bốn lĩnh vực cần được coi trọng ngang nhau. Đó là chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, nhấn mạnh: văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội. Đây là tiền đề để khắc phục xu hướng coi nhẹ văn hóa, xem thường các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống; tuyệt đối hóa nhân tố kinh tế, rơi vào chủ nghĩa duy kinh tế mà Ph.Ăngghen đã từng phê phán.

Như vậy, xét trong mối tương quan giữa chính trị, kinh tế, xã hội thì văn hóa là một bộ phận đóng vai trò trụ cột như các lĩnh vực khác, cần có sự quan tâm đầy đủ và đồng bộ để tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong quá trình phát triển. Phát triển văn hóa ở đây chính là phát triển các lĩnh vực hoạt động văn hóa, từ việc xây dựng con người, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống tới xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật, truyền thông đại chúng, giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa... Đảng xác định mục tiêu phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(1); cụ thể:

- Hoàn thiện các giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân v.v...

- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

- Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa...

- Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.

- Từng bước thu hẹp khoảng cách và hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định chế độ xã hội XHCN mà nhân dân xây dựng là xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(2). Đồng thời, Cương lĩnh cũng xác định: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”(3).

2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa trong xây dựng và phát triển đất nước

Nhìn một cách tổng quát, phát triển kinh tế chính là tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển văn hóa và con người, tạo điều kiện để con người có thể tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá và thụ hưởng các giá trị văn hóa ngày càng nhiều. Tuy nhiên, phát triển kinh tế bền vững, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế bền vững với bảo đảm các vấn đề xã hội và môi trường, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người là mục tiêu hàng đầu. Nền kinh tế được xác định là nền kinh tế thị trường nhân văn, kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự điều tiết và quản lý thống nhất của Nhà nước, để vừa bảo đảm tự do cho kinh tế thị trường phát triển, vừa bảo đảm định hướng chính trị ưu việt của chế độ XHCN.

Mặt khác, văn hóa phát triển sẽ góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, tạo lập môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh, nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học công nghệ, nâng cao kỷ cương, kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế và văn hóa là nâng cao chất lượng cuộc sống, đem lại hạnh phúc thực sự cho con người. Đây chính là điểm tương đồng, nơi hội tụ định hướngphát triển của kinh tế và văn hóa.

Sự khác biệt giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở đây chính là sự khác biệt về vai trò, chức năng xã hộitrong việc tham gia vào quá trình phát triển con người để tạo nên sự phát triển tổng thể cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người (bao gồm cá nhân và cộng đồng, dân tộc và nhân loại, các giai cấp và các tầng lớp xã hội khác nhau).

Nhận thức về vai trò của từng lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Đảm bảo gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội”(4). Khẳng định vai trò của văn hóa trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(5).

Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay, Đảng ta luôn chú ý đến mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Văn kiện Đại hội VI (1986), nhấn mạnh: “Mục tiêu ổn định tình hình, giải phóng năng lực sản xuất không chỉ là phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới mà còn là giải quyết các vấn đề xã hội, từ công việc làm đến đời sống vật chất và văn hóa, bồi dưỡng sức dân, xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, thực hiện công bằng xã hội, với ý thức người lao động là lực lượng sản xuất lớn nhất, là chủ thể của xã hội”(6).

Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”(7).

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định các mối quan hệ lớncần phải giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững đất nước, không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Trong đó có mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(8).

Trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, Đại hội XI nhấn mạnh đến yêu cầu phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội hài hòa với phát triển kinh tế: “Tạo bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội để phát triển văn hóa, xã hội. Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững”(9).

Trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã rút một số bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học “Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”(10). Đại hội tiếp tục nhấn mạnh việc gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế và văn hóa trong quá trình phát triển bền vững đất nước.

Đại hội XII đã xác định phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(11). Đồng thời, Đảng ta đã xác định mục tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững...”(12).

Trong lĩnh vực phát triển văn hóa, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”(13); cụ thể là “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ gìn chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(14).

Một trong những nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa là chú ý chức năng kinh tế của văn hóa, coi trọng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế. Đồng thời, xác định nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước là xây dựng văn hóa trong kinh tế: “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội”(15). Đẩy mạnh “phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”(16).

Như vậy, về phương diện lý luận, Đảng ta đã nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Những chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về giải quyết mối quan hệ này trong hoạt động thực tiễn đã góp phần bảo đảm giữ vững định hướng chính trị, đề cao tính văn hóa của nền kinh tế, xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.


 

3. Một số vấn đề đặt ra hiện nay

- Về nhận thức lý luận, phát triển kinh tế và phát triển văn hóa của đất nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay đều hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Điểm tương đồng tạo nên sự thống nhất trong phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của con người. Sự phát triển kinh tế và phát triển văn hóa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, các hoạt động kinh tế chưa có sự gắn kết chặt chẽ với văn hóa; hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế và văn hóa chưa thực sự quan tâm đến sự gắn kết này.

Trong việc phân bổ các nguồn lực, Nhà nước thường tập trung cho nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, chưa đầu tư đúng mức cho văn hóa. Trong khi xây dựng quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, các nhà quản lý thường tập trung vào mục tiêu lợi ích kinh tế, chưa chú ý tới điều kiện sống, môi trường lao động và đời sống văn hóa tinh thần của người lao động. Doanh nghiệp thường chạy theo lợi ích kinh tế, ít quan tâm đến các giá trị văn hóa và chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng xã hội. Các hoạt động văn hóa cũng tiến hành theo “quán tính bao cấp cũ”, chưa tích cực chủ động tham gia vào “làm giàu bằng văn hóa” để phát triển kinh tế - xã hội. Sự tách rời giữa hoạt động kinh tế và hoạt động văn hóa có chiều hướng gia tăng cả ở các cấp Trung ương, cấp bộ, ngành và địa phương. Đặc biệt, xu hướng này thể hiện khá rõ ở các ‘’nhóm lợi ích’’ khác nhau, tìm cách để “lách luật” nhằm mục tiêu lợi nhuận, phá vỡ kỷ cương, pháp luật, tạo cơ hội cho tham nhũng phát triển, gạt bỏ các giá trị văn hóa và nhân văn ra khỏi hoạt động kinh tế. Đây chính là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của kinh tế, có thể dẫn dắt nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, đi ngược lại mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, làm biến dạng mục tiêu chính trị. Những vụ án kinh tế lớn gần đây đã cảnh báo nguy cơ này và đòi hỏi phải có các giải pháp khắc phục, trong đó có giải pháp “xây dựng văn hóa trong kinh tế”.

Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa không phải là mối quan hệ cơ học, tách biệt hoặc đối lập nhau mà quan hệ biện chứng, thể hiện ở chất lượng phát triển bền vững của quốc gia. Nếu phát triển kinh tế để xây dựng nền tảng vật chất thì phát triển văn hóa để tạo dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Sự phát triển đồng bộ của hai lĩnh vực trọng yếu này góp phần vào sự phát triển bền vững đất nước. Định hướng giá trị cốt lõi của phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là vì lợi ích của quốc gia dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển nhân cách của mỗi con người. Từ thực tiễn đổi mới đất nước 30 năm vừa qua, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm là: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”(17).

Nếu tiềm lực kinh tế cùng với chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại là “sức mạnh cứng’’ thì văn hóa chính là “sức mạnh mềm”, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đầu tư cho phát triển văn hóa không chỉ là đầu tư cho vấn đề phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng môi trường văn hóa mà còn là đầu tư để phát triển “sức mạnh nội sinh”, đầu tư để phát triển “sức mạnh mềm” của dân tộc trong hội nhập quốc tế.

Giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Sự điều tiết của Nhà nước cần phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các tiêu cực, tệ nạn xã hội và đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp có nguyên nhân sâu xa từ việc chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề xây dựng con người, phát triển văn hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Việc giáo dục đạo đức và pháp luật cho con người bước vào kinh tế thị trường hầu như chưa được quan tâm trong hệ thống giáo dục đại học và dạy nghề. Đạo đức công chức, công vụ cũng chưa được quan tâm trong các chương trình đào tạo cán bộ, công chức, viên chức các cấp.

Từ Đại hội VI đến Đại hội XI, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên nhưng tác động vào đời sống rất hạn chế. Từ khi có Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cuộc chiến chống tham nhũng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống “diễn biến” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng mới có bước đột phá. Nhiều vụ tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, các nhóm lợi ích được xử lý, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, cần quan tâm nâng cao chất lượng phát triển văn hóa và con người, “đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội”; có giải pháp cụ thể và hữu hiệu để phát triển văn hóa, tạo lập các giá trị và chuẩn mực văn hóa và con người phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Cần xác định rõ chủ thể của việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Nếu không xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong việc xử lý mối quan hệ này, quan điểm, chủ trương không thể đi vào cuộc sống. Quốc hội, Chính phủ phải kết hợp thể chế hóa các quan điểm của Đảng thành luật pháp và chính sách, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong xử lý mối quan hệ này. Việc phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong giải quyết mối quan hệ này là cơ sở để kiểm tra, giám sát được các hoạt động thực tiễn. Khi đó, quan điểm chủ trương của Đảng mới được thực thi có hiệu quả.

(1), (5), (15), (16) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.47, 48, 53, 56.

(2), (3), (8), (9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70, 71, 73, 124.

(4) ĐCSVN : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,  Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.213.

(6), (7) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.199, 576.

(10), (11), (12), (13), (14), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.69, 102, 104, 127, 128, 69-70.

Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét