ThS. Đỗ Thị Thảo
Nội dung các chuyên đề tham luận tại Hội thảo rất phong phú, tập trung làm nổi bật những vấn đề về trật tự và cục diện thế giới trong thời gian hơn một thập niên đầu thế kỷ XXI, như: Lý thuyết về trật tự thế giới và cục diện thế giới, về quyền lực và cạnh tranh quyền lực trong quan hệ quốc tế; Cục diện mới trong quan hệ giữa các nước lớn và tác động của những sự cạnh tranh này đối với Việt Nam; Cục diện quan hệ quốc tế ở một số khu vực, giữa các cường quốc; Tập hợp lực lượng và tương quan lực lượng trên thế giới. Ngoài ra, một số tham luận còn đề cập những vấn đề về Chủ nghĩa tư bản trong quá trình hình thành trật tự thế giới mới, về vai trò của các nước đang phát triển trong xu thế thiết lập lại trật tự thế giới mới,… Có thể khái quát các đề tài tham gia Hội thảo thành 5 nhóm vấn đề lớn sau đây:
1. Một số lý thuyết về trật tự thế giới và cục diện quốc tế; về quyền lực
và cạnh tranh quyền lực trong quan hệ quốc tế
Cùng
với quá trình
phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, các hệ thống quan hệ
quốc tế dần dần được hình thành trên những
quy mô khác nhau,
từ khu vực, liên khu vực rồi mở rộng ra toàn thế giới, các chủ thể cơ bản của mỗi hệ thống càng
ngày càng trở nên đa dạng. Một số báo cáo tham luận đã đưa
ra những khái niệm cơ bản giúp chúng ta nhận diện trật tự thế giới, khu vực hoặc đánh giá thực lực của một quốc gia.
Trong tham luận Đặc điểm cục diện thế giới hiện nay và sự tác động của nó đến Việt Nam,
PGS, TS. Thái Văn Long cho rằng Trật tự
thế giới dùng để chỉ kết cấu về lực lượng của các chủ thể quan hệ quốc tế,
là mối liên hệ giữa các chủ thể đó, nó phản ánh và xác định vai trò, vị trí của
các quốc gia trong quan hệ quốc tế theo một chuẩn mực nhất định được cộng đồng quốc tế thừa nhận một cách tự giác hoặc bắt buộc. Có kết cấu ổn định
với cơ chế tác động giữa các chủ thể và nguyên tắc vận hành hoạt động quốc tế
trong một giai đoạn lịch sử tương đối dài. Còn
Cục diện quốc tế phản
ánh toàn bộ tình hình quốc tế được biểu hiện theo “lát cắt” cụ thể về thời gian với các mối liên hệ, tác
động qua lại và tương quan so sánh lực lượng giữa các chủ thể của đời sống quan
hệ quốc tế, trong một thời điểm nhất định. Nói cách khác, đó là tình hình thế giới và các mối quan hệ quốc tế được biểu hiện trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Cục diện quốc tế mang tính động, kết cấu
thường xuyên biến đổi.
Ở một số giai đoạn lịch sử, sự vận động của thế giới không được biểu hiện ra
trong một trật tự cụ thể mà được
nhận biết trong những cục diện khác nhau, tùy thuộc vào tương quan lực lượng
trên thế giới. Vì vậy, trật tự thế giới và cục diện quốc tế có quan hệ gắn bó
với nhau, đều cùng phản ánh sự phân bố và tương quan so sánh lực lượng giữa các
chủ thể quốc tế. Tuy nhiên, trật tự thế giới nhấn mạnh sự thể hiện những chuẩn mực, kết cấu lực lượng được hình thành, ổn định mà cộng đồng thế giới thừa nhận một cách tự
giác hoặc bắt buộc; còn cục diện quốc tế phản
ánh tình hình thế giới trong đó có trật tự thế giới luôn vận động và biến đổi.
Hai khái niệm này không thể thay thế cho nhau.
Tham luận Cục
diện quan hệ quốc tế giữa các cường quốc từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008 của ThS. Phan Thị Thu Hằng cũng đề cập
Trật tự thế giới. Ở đây, khái niệm Trật tự thế
giới được xác lập bằng các hiệp định, quy ước, luật lệ quốc tế chung nhất
cho các hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao trên trường quốc tế.
Sự xác lập đó có thể thông qua con đường bạo lực hoặc không bạo lực, sử dụng
sức mạnh quân sự hoặc thỏa hiệp về kinh tế, chính trị. Vì vậy, trật tự thế giới
thường phản ánh tương quan lực lượng giữa các quốc gia và hệ thống nhà nước;
giữa các giai cấp cơ bản và lực lượng chính trị, kinh tế, quân sự chủ yếu; giữa các tổ chức, các phong trào chính
yếu có ảnh hưởng đến cộng
đồng quốc tế.
Quyền lực và cạnh tranh quyền lực trong quan hệ quốc tế - Một số
vấn đề lý thuyết là tham luận của PGS, TS. Hà
Mỹ Hương đã đưa ra một số khái niệm, như: “Quyền
lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động của đời sống xã hội, trong đó
chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ xã hội”. Còn “Quyền lực chính
trị là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp để thực hiện sự
thống trị chính trị trên cơ sở thực hiện chức năng công quyền, cơ bản bằng
quyền lực nhà nước, là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá
trị xã hội có lợi cho giai cấp mình và đảm bảo mức độ nhất định sự công bằng xã hội”. Sức mạnh tổng hợp quốc gia “là toàn bộ thực lực bảo đảm sự tồn tại,
phát triển và nâng cao vị thế của một quốc gia trong quan hệ quốc tế, bao gồm
các nhân tố vật chất (phần cứng như tài nguyên,
dân số, kinh tế, quân sự), các nhân tố tinh thần (phần mềm như chất lượng chính phủ, thể chế chính trị)”. Sức mạnh (quyền lực) cứng (hard power) là
thuật ngữ được dùng trong lý luận quan hệ quốc tế để mô tả tác động của sức mạnh
quân sự và kinh tế dùng để chống lại hành vi hoặc lợi ích của các thực thể chính trị
khác. Sức mạnh cứng (hay quyền lực cứng) của một quốc gia bao gồm tiềm lực kinh
tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật và nguồn tài nguyên cơ bản. Sức mạnh tiềm tàng được xây dựng trên cơ
sở độ lớn của dân cư và mức độ phát
triển kinh tế. Hai yếu tố này là hai trụ cột của sức mạnh quân sự. Còn sức mạnh thực tế của
một nước
thông thường là sức mạnh quân sự, chủ yếu dựa vào lục quân,
với sự hỗ trợ trực tiếp của hải quân và không quân nước đó. Sức mạnh mềm (soft power) là
thuật ngữ dùng để chỉ tác
động tăng cường sức mạnh nhờ ý thức hệ, hoạt động ngoại giao, truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa của quốc gia. Năm 1990, lần đầu tiên trong quan hệ quốc tế, khái niệm “sức mạnh mềm” hoặc “quyền lực mềm” được biết đến bên
cạnh khái niệm “sức mạnh cứng”. Ngày nay, thế giới nhắc nhiều đến sức mạnh mềm cùng với tầm quan trọng của nó.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, Cạnh tranh
quyền lực được hiểu là hình thái đối kháng (trực tiếp hay gián tiếp) giữa
hai (hoặc nhiều) chủ thể nhằm tranh giành ảnh hưởng đối với một (một số) chủ thể khác thông qua việc tác động hoặc ép buộc chủ
thể đó phục tùng ý chí của mình.
2. Đặc điểm của cục diện mới trong
quan hệ giữa các nước lớn và những
tác động đối với Việt Nam
Một số báo cáo: Cục
diện quan hệ quốc tế khu vực Trung Đông từ sau biến động “Mùa xuân A-rập” đến nay của ThS. Đỗ Thị Thảo; Cục diện quan hệ quốc tế giữa các cường quốc
từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 của ThS. Phan Thị Thu Hằng; Tác động của cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn ở Đông Nam Á của PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp; Gia tăng cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung, Trung - Nhật và vị thế của
Nga, Ấn Độ, Liên minh châu Âu, Ô-xtrây- li-a,
Hàn Quốc, ASEAN trong bàn cờ địa chính trị Đông Á thập niên đầu thế kỷ XXI của
TS, Thiếu tướng Hoàng Văn Đồng; Cạnh
tranh chiến lược Nga - Mỹ tại Đông Nam Á đầu thế kỷ XXI của ThS. Nguyễn Thị
Tú Hoa; Sự cạnh tranh của các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương hai thập niên đầu thế kỷ XXI: Thực trạng và triển vọng của học viên
cao học Vũ Đức Tho; Những nỗ lực của Nga
nhằm tăng cường vai trò cường quốc trong quan hệ quốc tế của PGS, TS. Phan
Văn Rân;… đã cho thấy: Trong hơn một thập niên đầu thế kỷ XXI, các cường quốc
đã cơ bản hoàn thành quá trình điều
chỉnh chiến lược. Địa vị và vai trò của một số nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, đã được xác định. Mỗi
nước lớn đều tìm cách xác lập vị trí và cải thiện, nâng cao
vai trò của mình trong quan hệ quốc tế. Quá trình này chứa đựng những bước
thăng trầm nhất định. Các cường quốc đều phải tiến hành điều chỉnh một cách
toàn diện chiến lược quốc gia và chính sách đối ngoại nhằm tìm kiếm một vị thế
mới trong thế giới đa cực. Tựu trung ở ba vấn đề lớn sau đây:
Thứ
nhất, đặc điểm cơ bản của cục diện quan hệ quốc tế
giữa các nước lớn hiện nay là quá trình sắp xếp lại tương quan lực lượng đang
diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Mỹ tuy vẫn giữ được vị thế hàng đầu nhưng đã và
đang có sự suy giảm tương đối so với các cường quốc khác. Trong khi đó, sự trỗi
dậy của các nước mới nổi đang cạnh tranh ngày càng gay gắt với Mỹ, tuy nhiên những nước này đều tránh thế
đối đầu với Mỹ. Các bên đều lựa chọn phương thức vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau, cùng tồn tại hòa bình. Xu thế này được dự báo sẽ còn duy trì lâu
dài, bởi trước mắt chưa thể có những thay đổi đột biến, vượt trội để tiến tới thiết lập một trật tự thế giới mới.
Thứ hai, quan hệ giữa các nước lớn diễn biến theo hướng ổn định với phương
thức vừa đấu tranh vừa hợp tác ngày càng rõ nét. Các mâu thuẫn dù gay gắt nhưng
không dẫn tới xung đột, tan vỡ quan hệ mà cuối cùng đều đi tới những dàn xếp,
thỏa thuận, duy trì ổn định và ngày càng được nâng cấp các mối quan hệ.
Thứ
ba, trong các mối quan hệ giữa các nước lớn với nhau
thì quan hệ Mỹ - Trung được xếp vị trí quan trọng hàng đầu; quan hệ Mỹ - Nhật ở vị trí thứ hai. Còn
quan hệ Mỹ - Nga và Nga - Trung có vị trí quan trọng trong đời sống quốc tế; quan
hệ Trung - Nhật có vị trí quan trọng và ảnh hưởng lớn ở khu vực Đông Á và Châu
Á - Thái Bình Dương,…
Dù nhìn nhận những thay đổi của các mối
quan hệ giữa các nước lớn ở góc độ nào cũng đều có thể dễ dàng nhận thấy là, họ
đang ngày càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn, tập hợp lực lượng của các cường quốc đang có những biến chuyển
hết sức phức tạp. Tuy nhiên, bản chất mối quan hệ hợp tác - kiềm chế của các nước
này được định hình từ sau Chiến
tranh Lạnh cho đến nay vẫn chưa thể thay đổi hoàn toàn, sự điều chỉnh những chính sách
hiện nay mới chỉ là hình thức. Vì vậy, chưa đủ lực để tạo ra một cục diện thế
giới G2 (Mỹ - Trung Quốc) như một số nhà phân tích dự báo, mà cục diện thế giới hiện nay đang dần rõ
nét một thế quân bình theo kiểu đa giác, nhiều
cực.
Theo PGS, TS. Thái Văn Long, đặc điểm
của cục diện mới trong quan hệ giữa các nước lớn hiện nay đã có những tác động đối với Việt Nam, được
Hội thảo tán đồng như sau:
Một
là, trong cuộc chạy đua khốc liệt, để tăng sức mạnh
tổng hợp, tất cả các quốc gia đều dành ưu tiên cao cho phát triển khoa học
- công nghệ, đi liền với đó là
chất lượng nguồn nhân lực. Điều này đặt Việt Nam trước những thách thức gay gắt
hơn, nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không kịp thời có những điều chỉnh thích hợp trong
chiến lược phát triển.
Hai là, nhu cầu về nguyên nhiên liệu, nhất là về dầu khí cho những cuộc chạy đua
nói trên ngày càng lớn. Việt Nam nằm trong khu vực giàu tiềm năng thiên
nhiên (biển và rừng), nhất là có trữ lượng dầu khí tương đối lớn, do đó
được rất nhiều quốc gia quan tâm. Mặt khác, nhu cầu năng lượng cho mục tiêu phát triển
của chính nước ta cũng ngày một tăng,
vì vậy, ngoại giao năng lượng cần trở thành một nhiệm vụ quan trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam
còn có thế mạnh về lương thực, trong khi lĩnh vực này đang trở thành một điểm
nóng trong quan hệ quốc tế, nên đầu tư phát triển nông nghiệp không chỉ nhằm
bảo đảm an ninh lương thực trong nước mà còn
là công cụ hữu hiệu trong quan hệ quốc tế.
Ba
là, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á nói riêng,
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung - là khu vực đang được đánh
giá về sự phát triển năng động, là “động
lực” phát triển
của thế giới, được tất cả các nước lớn quan
tâm, do đó chịu tác động của sự tranh giành ảnh hưởng phức tạp giữa các nước lớn
về
mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế,… Điều này đòi hỏi Việt Nam luôn phải có
những kế sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp.
3.
Những tác động đến sự vận động của Cục diện thế giới
từ nay đến năm 2020
Vẫn qua những báo cáo và tham luận (đã
nêu) của các tác giả: PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp, TS, Thiếu tướng Hoàng Văn
Đồng, ThS. Đỗ thị Thảo, ThS. Phan Thị Thu Hằng, ThS. Nguyễn Thị Tú Hoa, PGS,
TS. Phan Văn Rân, Vũ Đức Tho,… có sáu vấn đề mới nổi lên, tác động đến xu hướng
vận động Cục diện thế giới (tương quan so sánh lực lượng toàn cầu) từ nay đến
năm 2020 như sau:
Thứ nhất, khác với trước
đây, bên cạnh vai trò chủ đạo của các nước lớn, các
nước vừa và nhỏ ngày càng vươn lên khẳng định vai trò, vị trí của mình trong
việc tham gia hoạch định và giải quyết các vấn đề có liên quan đến vận mệnh chung của
khu vực, thế giới và nhân loại.
Thứ
hai, trong quan hệ quốc tế, để đánh giá sức mạnh của
một quốc gia, bên cạnh các nhân tố
mang tính truyền thống là chính trị, quân sự thì nhân tố kinh tế ngày càng bộc
lộ rõ nét và đóng vai trò quan trọng. Hiện nay, Về chính trị, đi đôi với quyền lực “cứng”, quyền lực “mềm” ngày càng trở thành phương cách phổ biến và có nhiều tác dụng. Về quân sự, bên cạnh cuộc chạy đua về
sức công phá, khả năng cơ động, đang nổi lên cuộc chạy đua về khả năng điều
khiển bằng công nghệ thông tin. Về không
gian, cùng với phạm vi chủ quyền về đất liền và bầu trời, thì đại dương và
vũ trụ đang trở thành địa bàn tranh giành gay gắt. Về kinh tế, trong cuộc chạy đua về sức mạnh tổng lực, nước nào cũng dành ưu tiên cao cho khoa học
- công nghệ, đồng
thời chú trọng nhân tố con người.
Các nước vừa hợp tác, vừa cạnh tranh,
kiềm chế, tạo nên thế đan xen, tùy thuộc lẫn nhau về lợi ích, và đều cố gắng
hạn chế khả năng nổ ra chiến tranh lớn. Hơn nữa, mặc dù cạnh tranh gay gắt
nhưng không dẫn đến đối đầu triệt tiêu nhau, mà thỏa hiệp cùng tồn tại ở thế
“win - win” - thế cùng thắng.
Thứ ba, khả năng trật tự thế giới “hai cực mới” chưa xuất hiện. Xu hướng đa cực đang hình thành nhưng chưa rõ nét.
Đáng chú ý là hiện nay chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy mạnh mẽ.
Thứ
tư, bên cạnh vai trò quan trọng của Liên hợp quốc,
ngày càng xuất hiện nhiều tổ chức, nhiều diễn đàn đa phương, ở phạm vi khu vực
cũng như phạm vi toàn cầu, nhằm điều hòa lợi ích, giải quyết xung đột, xử lý
các vấn đề chung của nhân loại.
Thứ
năm, thế giới đang diễn ra sự dịch chuyển và phân tán
quyền lực trên phạm vi toàn cầu: dịch chuyển từ Âu - Mỹ sang các nước mới nổi;
phân tán sang các trung tâm quyền lực ở các châu lục, khu vực khác như Trung
Đông - Bắc Phi, Trung Á, Đông Á, Mỹ La-tinh, Châu Phi,…
Thứ
sáu, những vấn đề an ninh phi truyền thống, những vấn
đề toàn cầu có liên quan đến vận mệnh sống còn của nhân loại ngày càng đòi hỏi
phải được giải quyết cấp bách, song, không một quốc gia nào có thể tự mình giải
quyết được, mà đòi hỏi sự chung tay hợp tác của toàn thể nhân loại, của tất cả
các quốc gia cùng tham gia giải quyết.
4.
Các xu thế và hình thức
của liên minh,
liên kết, tập hợp lực lượng hiện nay
Các tham luận: Một
số vấn đề về tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế thời kỳ sau Chiến tranh
lạnh của TS. Mai Hoài Anh; Vai trò
của các nước đang phát triển trong cuộc đấu tranh thiết lập trật tự thế giới
mới thập niên đầu thế kỷ XXI của ThS. Lưu Trần Toàn,… đã tập trung
làm rõ: Trong lịch sử quan hệ quốc tế truyền thống cũng như hiện đại, quan
hệ giữa các nước lớn luôn đóng vai trò chi phối các mối quan hệ quốc tế cùng quá trình hình thành
và cơ chế vận hành của trật tự thế giới, của các tập hợp lực
lượng quốc tế. Các nước vừa và nhỏ, dù muốn hay không, cũng phải lưu ý tới động
thái của các nước lớn để hoạch định và điều
chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Khuôn khổ chung trong quan hệ giữa
các nước lớn
từ sau Chiến tranh lạnh đã được xác lập, đó là hợp tác và
đấu tranh. Mặc dù xuất phát từ những
mục đích khác nhau và ở những mức độ không giống nhau, song, các nước đều cần đến nhau, vì vậy, đều
muốn hợp tác với nhau, thúc đẩy những mối quan
hệ song phương,
đa phương,… nhằm phục vụ mục tiêu phát triển và nâng cao
vị thế của mình. Đồng thời, các quốc gia đều đấu tranh nhằm kiềm chế lẫn nhau
trong thời kỳ quá độ từ cục diện cũ sang cục diện mới, không có tình trạng đối
đầu như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, thể hiện rõ hai mặt cạnh tranh và hợp
tác. Các xu thế tập hợp lực lượng chủ yếu hiện nay là:
Xu thế tập hợp lực lượng dựa trên sự trùng hợp về lợi ích. Đây là xu thế mang tính phổ biến và xuyên suốt trong
quan hệ quốc tế qua các giai đoạn lịch
sử. Nét mới của xu thế này sau Chiến tranh lạnh là có sự tham gia của các nước
có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trong các tổ chức, các liên kết nhằm giải quyết
các vấn đề quốc tế trên cơ sở
bảo đảm lợi ích của các quốc gia.
Tập
hợp lực lượng dựa trên cơ sở gần gũi về địa lý, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, dân
tộc. Đây là cơ sở cho việc liên kết, tập hợp lực lượng
theo khu vực, tiểu khu vực. Sự phát triển các mô hình liên kết ở phạm vi không gian khu vực đang thể
hiện được coi là một quy mô thích
hợp đối với việc điều tiết nền kinh tế thế giới. Việc liên kết, tập hợp lực
lượng ở các khu vực hiện nay cũng mang tính chất “mở” hơn, toàn diện và đa dạng về hình thái và thành
phần.
Các
hình thức của liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng hiện nay: Các xu thế liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng là do nội dung,
tính chất của các vấn đề quốc tế cần giải quyết quy định, còn hình thức và độ
gắn kết của các liên kết, tập hợp lực lượng lại do độ chín muồi của việc giải
quyết các vấn đề đó quy định. Độ chín muồi càng cao thì hình thức càng chặt
chẽ, còn khi chưa có điều kiện hoặc chưa chín muồi thì độ liên kết của các tập
hợp thường lỏng lẻo. Nhìn chung, hiện nay có 3 hình thức liên kết, tập hợp lực
lượng phổ biến là: song phương - khi có hai chủ thể tham gia; đa phương - khi
có nhiều chủ thể tham gia; toàn cầu - khi tất
cả hoặc hầu hết các chủ thể quan hệ quốc tế đều tham gia.
Xét theo lĩnh vực, các hình thức liên kết, tập hợp lực lượng bao gồm: liên kết,
tập hợp về kinh tế, về chính trị, về quân sự,…
5.
Chủ nghĩa tư bản trong trật tự thế
giới mới
Qua các tham luận: Chủ
nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình hình thành trật tự thế giới hai thập niên
đầu thế kỷ XXI của ThS. Nguyễn Thị Thu Hiền, Cục diện quan hệ quốc tế giữa các cường quốc từ sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008 của ThS. Phan Thị Thu Hằng, và một số báo cáo khác,
đã cho thấy:
Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa được coi
là giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế, nó có những cách thức
tồn tại và hình thức thống trị mới
nhưng không thay đổi về bản chất. Sau sự kiện Liên Xô tan rã, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, phong trào
cộng sản quốc tế tổn thất nặng nề và lâm vào thoái trào, chủ nghĩa tư bản mạnh
lên. Cán cân so sánh lực lượng tạm thời nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản là một hệ
thống xã hội rộng lớn, bao gồm nhiều quốc gia phát triển ở những trình độ khác nhau, có vai trò, vị trí quốc tế khác nhau, đa dạng, phong phú và phức tạp, quan
trọng, nổi bật trong đời sống quan hệ
quốc tế, thể hiện trên ba lĩnh vực: kinh tế, thương mại; chính trị, quân sự; khoa học - công nghệ. Do tính chất và trình độ lực
lượng sản xuất phát triển cao cho nên năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế của chủ nghĩa tư bản đạt ở mức rất cao. Vai trò của chủ
nghĩa tư bản, đặc biệt là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, trong các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Liên hợp quốc (LHQ),… là rất lớn. Mỹ đang tích cực
triển khai chính sách áp đặt, cường quyền. Chủ nghĩa tư bản đã có nhiều chủ
trương, chính sách điều chỉnh về kinh tế, chính trị, xã hội, đối nội, đối
ngoại,… để phát triển, song nó đã và đang gặp nhiều khó khăn, phức tạp không
thể giải quyết được. Đó chính là tính biện chứng, là giới hạn
lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Những mâu thuẫn, khó khăn về kinh tế, sự bất ổn định về
chính trị và hàng loạt các vấn đề sa sút về văn hóa - xã hội khác khiến cho địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản đang bị
lung lay.
Ngoài ra, nhiều chuyên đề khác như: Định hướng chính sách của Việt Nam trong
quan hệ với các nước lớn, của PGS, TS. Trần Khánh; Cạnh tranh chiến lược của Mỹ tại khu vực hạ nguồn sông Mekong đầu thế kỷ XXI của
ThS. Trịnh Thị Hoa;
Đối sách của ASEAN trước tác động cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn ở Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI của
PGS, TS. Nguyễn Thị Quế; Nét mới về chính
sách đối ngoại của Trung Quốc sau Đại hội XVIII của TS. Trần Thọ Quang,… là
những vấn đề thời sự quốc tế được đề cập tương đối hệ thống, sẽ hấp dẫn và hữu
ích đối với những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lĩnh vực quan hệ
quốc tế và những ai quan tâm.
Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét