Hoàng Hải Bằng (*)
Từ nửa đầu những năm 40 của thế
kỷ XIX, Ph.Ăngghen đã có những nghiên cứu độc lập và tiến dần đến quan niệm duy
vật về lịch sử. Ông đã đưa ra một số kết luận quan trọng về vai trò của các
quan hệ kinh tế trong đời sống xã hội, chỉ ra nguồn gốc và tính tất yếu của
cách mạng xã hội, giải thích sự tiếp nối của hệ thống các yếu tố lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng chính trị, vạch rõ tính giai
cấp của ý thức xã hội… Với những đóng góp này, công lao của Ph.Ăngghen trong
việc xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử là đặc biệt quan trọng, mặc dù ông luôn
coi thành tựu ấy là kết quả do sự lao động sáng tạo của riêng C.Mác. Đó là sự
khiêm nhường của một nhân cách lớn.
Bài viết này muốn góp phần làm rõ
rằng, bằng những nghiên cứu độc lập của mình, Ph.Ăngghen đã nhìn nhận lịch sử
theo quan điểm duy vật như thế nào và đâu là cống hiến của ông trong việc cùng
với C.Mác xây dựng nên chủ nghĩa duy vật lịch sử?
Năm 1888, trong lời tựa cho lần
xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Anh, khi mô tả những ý tưởng ban đầu thể hiện quan
điểm duy vật về lịch sử và khẳng định
điều đó là công lao thuộc về C.Mác, Ph.Ăngghen đã viết: "… cả hai chúng
tôi đều dần dần đạt tới từ nhiều năm trước 1845. Bản thân tôi đã tự mình đi
theo hướng đó tới mức độ nào thì ai nấy đều có thể xét đoán được qua cuốn sách
của tôi "Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh"(1). Như vậy, ngay từ khi còn rất
trẻ, Ph.Ăngghen đã quan tâm đến vấn đề quy luật phát triển chung của xã hội
loài người, của tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, phải thấy rằng, lúc đó, triết
học của Hêgen đã có ảnh hưởng đáng kể đến sự nghiên cứu của Ph.Ăngghen. Ông đã
bị cuốn hút bởi những tư tưởng của Hêgen về phép biện chứng, về tiến bộ và tự
do. Không chỉ có vậy, Ph.Ăngghen còn chịu ảnh hưởng từ toàn bộ triết học lúc
bấy giờ
-
đó chính là quan điểm duy tâm về
lịch sử. Bước chuyển của ông sang quan điểm duy vật về lịch sử diễn ra vào
khoảng ba năm sau. Bản thân Ph.Ăngghen cũng chỉ nhận ra điều đó khi ông chuyển
sang nước Anh. Trong Về lịch sử liên đoàn
những người cộng sản, Ph.Ăngghen
viết: "Lúc ấy, ở Mansétxtơ, tôi đã nhận thấy rất rõ ràng rằng những sự kiện kinh tế mà từ trước tới nay những tác phẩm
sử học cho là
Ph.Ăngghen đến nước Anh cuối
tháng 11 - 1842 và ngày 30 - 11, tại Luân Đôn, ông viết bài Những cuộc khủng hoảng trong nước cho "Nhật báo tỉnh Ranh". Bài báo này đánh dấu bước
chuyển đầu tiên của Ph.Ăngghen sang quan điểm duy vật về lịch sử.
Nhưng nhìn toàn thể, khi đó, quan
điểm của Ph.Ăngghen vẫn còn đặt trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm. Chẳng hạn,
ông cho rằng, cái gọi là lợi ích vật chất không bao giờ có thể xuất hiện trong
lịch sử với tính cách là những mục đích độc lập, chủ đạo, những bao giờ cũng
phục vụ một cách tự giác hoặc không tự giác cho cái nguyên tắc đang dẫn đường
cho tiến bộ của lịch sử.
Quan điểm duy vật về lịch sử của
Ph.Ăngghen dần dần được củng cố và phát triển. Chẳng hạn, khi đánh giá về cuộc
cách mạng xảy ra ở nước Anh, ông viết: "Cuộc cách mạng ấy là tất yếu đối
với nước Anh; nhưng cũng như tất cả mọi việc xảy ra ở Anh, cuộc cách mạng đó sẽ
được khởi đầu và tiến hành vì những lợi ích, chứ không phải vì những nguyên
tắc; các nguyên tắc chỉ có thể phát triển từ lợi ích, tức là cách mạng sẽ không
phải là cách mạng chính trị, mà là cách mạng xã hội"(3).
Vậy, những lợi ích vật chất đó là
gì? Trong Vấn đề nhà ở viết năm 1873,
Ph.Ăngghen đã giải đáp cho câu hỏi ấy khi ông khẳng định rằng, các quan hệ kinh
tế của mỗi xã hội được thể hiện trước hết như những lợi ích. Như vậy, theo quan
điểm của ông, các lợi ích vật chất là hình thức biểu hiện của các quan hệ kinh
tế.
Sự chuyển biến từ lập trường duy
tâm sang lập trường duy vật và tiến dần tới quan điểm duy vật về lịch sử của
Ph.Ăngghen vào thời gian đó hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Việc phân tích sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản ở nước Anh giúp
ông thấy rằng, sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển
của xã hội tư sản. Vì vậy, sự hình thành và phát triển quan niệm duy vật về
lịch sử của Ph. Ăngghen là quá trình tất yếu.
Một năm sau khi đến nước Anh, tức
là khoảng cuối năm 1843, Ph.Ăngghen đã viết cuốn Lược thảo phê phán khoa kinh
tế chính trị, trong đó ông
phê phán kinh tế chính trị học tư sản rằng, "kinh tế chính trị học cũng
không nghĩ đến việc đặt vấn đề về tính
chất chính đáng của chế độ tư hữu"(4)
và nhấn mạnh: "chỉ có chứng giải và thực hiện chế độ tự do thương mại thì
mới làm cho chúng ta có thể vượt ra khỏi những giới hạn của khoa kinh tế chính
trị của chế độ tư hữu"(5).
Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị thể hiện những kinh nghiệm đầu tiên
khi Ph.Ăngghen tiếp nhận và vận dụng phép biện chứng để nghiên cứu kinh tế
chính trị học. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, các phạm
trù mặt đối lập và mâu thuẫn được Ph.Ăngghen sử dụng để phân tích các phạm trù
kinh tế. Đối lập với các nhà kinh tế học tư sản xem xét các phạm trù kinh tế
như những gì vĩnh viễn, Ph.Ăngghen coi các phạm trù đó là những phạm trù lịch sử
được chế định bởi sở hữu tư nhân và như vậy, sự xuất hiện của chúng mang tính
lịch sử nhất thời.
Tác phẩm này thể hiện khá rõ những
ảnh hưởng của L.Phoiơbắc đối với Ph.Ăngghen. Tuy nhiên, về phương diện triết
học, ông đã đi xa hơn L.Phoiơbắc. Chẳng hạn, khi xem xét tính tất yếu của cách
mạng xã hội, Ph.Ăngghen đã không coi nguyên nhân của cách mạng xã hội bắt nguồn
từ những cơ sở đạo đức như L.Phoiơbắc quan niệm, mà từ sự phát triển của các
mâu thuẫn khách quan do sở hữu tư nhân tạo nên. Như vậy, về phương diện này,
quan điểm của Ph.Ăngghen đã khác hẳn so với quan điểm của các nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng cũng như các nhà duy vật tiền bối. Để làm rõ cơ sở duy vật
trong Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính
trị, cần phải xem xét nội dung của tác phẩm trong bối cảnh bao quát hơn, phải chú ý đến tổng thể các công trình
của Ph. Ăngghen trong thời kỳ ông sống ở Mansétxtơ, từ đó mới có thể thấy được
mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện kinh tế ® sự đối lập giai cấp ® đấu tranh
chính trị.
Trước Lược thảo phê phán khoa kinh
tế chính trị, trong các bài
báo đầu tiên của Ph.Ăngghen ở Anh, chúng ta mới chỉ thấy những dự đoán của ông
về vai trò của lợi ích kinh tế trong đời sống xã hội. Đến Lược thảo phê phán khoa kinh
tế chính trị, Ph.Ăngghen đã
nhận thấy giai cấp vô sản và giai cấp tư sản như những giai cấp xã hội xét về phương diện kinh tế. Thật ra, điều này đã
được các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh chỉ rõ và Ph.Ăngghen lấy đó làm điểm xuất phát cho nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, khác với các nhà kinh tế
chính trị cổ điển Anh, Ph.Ăngghen cho rằng, sở hữu tư nhân chính là cơ sở lịch
sử của sự tồn tại giai cấp trong xã hội tư sản.
Trong Tình cảnh nước Anh, Ph.Ăngghen đã thể hiện thái độ phê
phán quan điểm của Hêgen về lịch sử và khẳng định: "Lịch sử được chúng ta
đánh giá cao hơn là bất kỳ một học thuyết triết học nào khác trước đây, thậm
chí còn cao hơn cả Hêgen, mà lịch sử chung quy chỉ được ông ta dùng để kiểm
nghiệm cái kết cấu lôgíc của ông ta thôi"(6). Theo ông, "tình cảnh nước
Anh có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử và đối với tất cả các nước khác, bởi vì
về mặt xã hội, rõ ràng là nước Anh
Dự định của Ph.Ăngghen quay trở
lại phân tích tình cảnh nước Anh đã phải thực hiện theo hình thức khác một chút
so với mong muốn, vì tờ Niên giám Pháp -
Đức bị ngừng xuất bản. Từ cuối tháng
8 đến tháng 10 năm 1844, trên các trang tiếng
Đức của tờ báo Tiến lên xuất bản ở Pari đã có sự tham gia
của C.Mác vào ban biên tập. Do vậy, Ph.Ăngghen có điều kiện đăng tiếp tục hai
bài báo có nhan đề Tình cảnh nước Anh thế kỷ XVIII và Tình cảnh nước Anh. Hiến pháp nước Anh.
Bài báo thứ nhất đã chứa đựng tư
tưởng cơ bản của cuốn sách mà Ph. Ăngghen dự định viết trong tương lai về tình
cảnh giai cấp công nhân Anh. Đó là tư tưởng về vai trò xác định của cách mạng
công nghiệp trong lịch sử nước Anh. Trong bài báo đó, ông khẳng định: "Tác
dụng cách mạng hoá ấy của nền công nghiệp Anh là cơ sở của tất cả mọi quan hệ ở
nước Anh ngày nay, là động lực của toàn bộ sự phát triển xã hội. Hậu quả đầu
tiên của nó là việc đề cao lợi ích..., lên thành sự thống trị đối với con
người... Nói một cách khác, sở hữu, vật đã trở thành kẻ thống trị thế giới. Kết
quả quan trọng nhất của thế kỷ XVIII đối với nước Anh là sự hình thành giai cấp
vô sản do có cuộc cách mạng công nghiệp... Kết quả của toàn bộ sự phát triển là
giờ đây, nước Anh chia thành ba phái: phái quý tộc ruộng đất, phái quý tộc kim
tiền và phái dân chủ công nhân"(9).
Trong bài báo thứ hai, Ph.Ăngghen
phân tích chế độ chính trị ở Anh khi đó và từ những sự kiện thực tế, ông đã đưa
ra một số kết luận có tính lý luận quan
Một điểm cần lưu ý là trong các
trang viết của mình, Ph.Ăngghen đã đặc biệt chú ý đến cách tiếp cận lịch sử của
các nhà kinh tế và triết học Anh. Ví dụ, Ph.Ăngghen cho rằng, A.Smít "đã
quy tất cả - chính trị, đảng phái, tôn giáo - vào những phạm trù kinh tế và
bằng cách đó, đã thừa nhận rằng sở hữu là bản chất của quốc gia", còn
G.Bentam thì "làm cho tổ chức chính trị trở thành hình thức của nội dung
xã hội, và bằng cách đó, đẩy mâu thuẫn tới đỉnh cao nhất"(10). Những
cống hiến của G.Bentam đã được C.Mác và Ph.Ăngghen xác định một cách chính xác
hơn trong Hệ tư tưởng Đức: "Ở
Bentam, tất cả những quan hệ đang tồn tại đều hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ
thực dụng, quan hệ thực dụng này được đề cao một cách vô điều kiện thành nội
dung duy nhất (nội dung kinh tế - H.H.B.) của tất cả những quan hệ khác... Tuy
lý luận thực dụng cũng xác lập mối liên hệ của tất cả những quan hệ đang tồn
tại với những quan hệ kinh tế, nhưng nó cũng chỉ làm việc đó một cách hạn
chế"(11).
Sau khi Ph.Ăngghen tới Pari và gặp C.Mác cuối tháng 8 - 1844, hai ông quyết định cùng nhau viết một quyển sách nhằm chống lại triết học của phái Hêgen trẻ - đó chính là tác phẩm Gia đình thần thánh. Ph.Ăngghen đã viết phần của mình - khoảng gần một nửa số trang được in - vào đầu tháng 9 năm 1844, sau đó ông quay sang Đức. Trong phần viết của mình, khi chống lại khuynh hướng giải thích lịch sử một cách duy tâm của phái Hêgen trẻ, Ph.Ăngghen đã đưa ra những nhận định quan trọng, cho rằng “"Lịch sử" không phải là một nhân cách đặc thù nào đó sử dụng con người làm phương diện đạt tới các mục đích của mình. Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình"(12). Kết quả của việc nghiên cứu độc lập để hiểu lịch sử theo quan điểm duy vật ở Ph.Ăngghen được thấy rõ trong cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh do ông viết từ tháng 9 năm 1844 đến tháng 3 năm 1845 và ra mắt bạn đọc tháng 5 năm 1845 tại Lépxích. Lúc này, Ph.Ăngghen đã chuyển sang Brúcxen với C.Mác và bắt đầu một thời kỳ mới trong sự nghiệp nghiên cứu và sáng tạo của mình. Trong lời tựa và lời nói đầu của cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Ph.Ăngghen đã đưa ra nhận định quan trọng rằng, "lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa thứ hai của thế kỷ XVIII, cùng với việc phát minh ra máy hơi nước và những máy làm bông... Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của nó thì đồng thời nó cũng đã làm biến đổi toàn bộ xã hội công nhân...; do đó, nước Anh cũng là nước điển hình về sự phát triển của giai cấp vô sản, kết quả chủ yếu của sự biến đổi đó. Chỉ có ở Anh mới có thể nghiên cứu toàn diện giai cấp vô sản trên tất cả các mối quan hệ của nó"(13).
Như vậy, quan điểm duy vật về
lịch sử của Ph.Ăngghen - kết quả trực tiếp do sự nghiên cứu độc lập của ông
được hình thành từ tháng 2 năm 1844, trong bài báo thứ hai của cuốn Tình cảnh
nước Anh. Thực chất của quan điểm
đó là: Cách mạng công nghiệp tạo ra cuộc đảo lộn toàn bộ trong xã hội công dân,
từ sự thay đổi của công cụ lao động, của phương thức sản xuất dẫn đến sự thay
đổi kết cấu giai cấp của xã hội. Cũng vào tháng 2 năm 1844, Ph.Ăngghen đã chỉ
ra được mối liên hệ giữa kinh tế - kết cấu giai cấp của xã hội - chính trị và
sau đó một năm, ông đã vạch rõ tính chất giai cấp của ý thức xã hội. Theo
Ph.Ăngghen, "chế độ công xưởng thâm nhập vào một ngành lao động nào đó
càng sâu thì công nhân của ngành đó được lôi cuốn vào phong trào càng đông. Sự
đối lập giữa công nhân và tư bản càng gay gắt, thì ý thức vô sản trong công
nhân càng phát triển, càng sâu sắc"(14).
Với những nghiên cứu của mình,
Ph.Ăngghen đã chỉ ra bốn mắt khâu của một cấu trúc xã hội hoàn chỉnh mà cho đến
ngày nay, chúng ta vẫn phải dựa vào đó để nghiên cứu và cải tạo thế giới hiện
thực. Điều đó cũng có nghĩa rằng, những đóng góp của ông vào việc xây dựng và
phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử là vô
(*) Giảng
viên, Khoa Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995,
tr.523.
(2) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.321.
(3) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.691.
(4) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.749.
(5) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.750.
(6) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.818.
(7) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.825.
(8) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.19.
(9) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.850 - 852.
(10) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.850 - 851.
(11) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.604.
(12) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.2, tr.141.
(13) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.2, tr.331.
(14) C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd., t.2, tr.627.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét