PGS, TS
Đặng Quang Định
(LLCT) - Trong toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại, không một tư tưởng nào, học thuyết nào về lịch sử có thể sánh kịp với chủ nghĩa Mác về phương diện khoa học và cách mạng. Bằng việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự vận động, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất và lịch sử loài người, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới con đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công và xây dựng một chế độ xã hội mới hướng đến sự giải phóng triệt để và phát triển toàn diện con người.
Nói
một cách khái quát, chủ nghĩa Máclà học thuyết về sự giải phóng và phát triển.
Chủ nghĩa ấy hướng đến sự giải phóng triệt để con người khỏi mọi sự nô dịch, áp
bức bóc lột, sự hạn chế trong các quan hệ xã hội và hướng đến sự giải phóng
triệt để con người. Chủ nghĩa ấy được xây dựng trên cơ sở kế thừa các thành tựu
nhận thức khoa học của lịch sử tư tưởng nhân loại vàchỉ ra được những quy luật
chi phối toàn bộ sự vận động và phát triển của thế giới vật chất nói chung và
lịch sử xã hội nói riêng, chấm dứt mọi sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo,
chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải thích các hiện tượng xã hội và lịch sử.
Chủ nghĩa Máccũng đóng góp vô cùng quý giá vào sự phát triển củatriết học, kinh
tế chính trị học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và nhiều khoa học khác, trở thành
nền tảng lý luận có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phát triển tư
duy và nhận thức của nhân loại. Lần đầu tiên chủ nghĩa ấy cung cấp phương pháp
luận khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó góp phần
thay đổi căn bản tư duy của nhân loại trong việc thay đổi, cải tạo thế giới,
hướng đến việc xây dựng một thế giới của con người, cho con người, vì con
người. Ở đó, sự phát triển của mỗi người là tiền đề cho sự phát triển và tự do
của tất cả mọi người. Vì vậy, chủ nghĩa ấy, đồng thời bao hàm tính cách mạng.
Tính khoa học và cách mạng đã làm nên những giá trị bền vững của chủ nghĩa
Mácvà sức sống mạnh mẽ trong thời đại của chúng ta. Có thể khái quát những giá
trị bền vững của chủ nghĩa Mác ở những nội dung sau:
Thứ
nhất, phép biện chứng duy vật
Phép
biện chứng duy vật của triết học Mác là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa trong lịch
sử phát triển nhận thức của nhân loại về sự vận động, biến đổi của thế giới vật
chất. Như Ph.Ăngghen đã định nghĩa, phép biện chứng duy vật là khoa học về
những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng trình
bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua
những nguyên lý, những quy luật và những phạm trù chung nhất của thế giới. Vì
vậy, phép biện chứng duy vật vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận
nhận thức, và là lôgic học của chủ nghĩa Mác. Phép biện chứng duy vật là lý
thuyết triết học và đồng thời cũng là phương pháp phổ biến của tư duy, của sự
nhận thức khoa học, “nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công
nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”(1), đồng thời là phương pháp để
cải tạo xã hội.
Thông
qua phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, C.Mác đã khẳng định: “triết
học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý..., triết học không đòi hỏi tin tưởng vào
các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi”(2).
Theo đó, triết học duy vật biện chứng của C.Mác luôn nhìn thẳng vào sự thật,
hướng về thực tiễn để hướng dẫn, giải quyết những vấn đề cơ bản và bức thiết do
thực tiễn, do hiện thực cuộc sống đặt ra. Chính vì thế mà triết học duy vật
biện chứng của C.Mác có khả năng tự đổi mới và phát triển, trở thành kim chỉ
nam cho hành động, mở đường và hướng dẫn nhân loại tiến bộ tiếp tục tìm kiếm và
nhận thức chân lý, chứ không đi tới chân lý tuyệt đích, cuối cùng.
Thông
qua phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, lần đầu tiên Mác đã gắn triết
học với đời sống hiện thực. Triết học không đứng ngoài cuộc sống, mà nó đã góp
phần vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân lao động, làm cho cuộc đấu tranh
giai cấp của nhân dân lao động “không còn mang tính chất biệt phái, ngẫu nhiên”
nữa mà là hành động có tổ chức nhằm bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng
lớp đông đảo người trong xã hội, điều mà các lý luận khác không làm được.
C.Mác
đã từng phê phán những trường phái triết học xa rời thực tiễn đời sống xã hội.
Ngay từ khi còn là biên tập viên của Báo Sông Ranh,C.Mác đã chỉ
ra rằng, triết học cũng phải theo đuổi những mục đích thực tiễn hiểu theo ý
nghĩa cao nhất của chữ đó như bất cứ hoạt động lao động nào khác của con người.
C.Mác nói, các nhà triết học không mọc như nấm từ dưới đất lên, họ là sản phẩm
của thời đại họ, của nhân dân họ, những nhựa sống tinh tế nhất, quý giá nhất và
chưa từng có của nhân dân được chung đúc lại trong những tư tưởng triết học.
Cũng như cái tinh thần xây dựng nên đường sắt với bàn tay của người công nhân,
xây dựng nên những hệ thống triết học trong đầu óc của nhà triết học. Triết học
không lơ lửng ở đâu ngoài thế giới cũng như bộ óc không nằm ngoài con người.
C.Mác phản đối quan điểm cho rằng triết học chỉ quan sát hiện thực, và không có
quan hệ gì với hoạt động thực tiễn, với sự biến đổi chế độ xã hội. Tháng 9 năm
1843, trong thư gửi A.Rugiơ, C.Mác cũng cho rằng nhiệm vụ của triết học không
phải là xây dựng lên một hệ thống, thích dụng “đối với mọi thời đại sau
này” mà là phê phán thẳng tay mọi cái đang tồn tại. Trong cuộc đấu
tranh chống lại các hệ tư tưởng phản động, C.Mác viết, triết học cũng cần gắn
liền với cuộc đấu tranh hiện thực. Đó là cuộc đấu tranh vì lợi ích của nhân dân
lao động, trước hết là giai cấp công nhân. Trong Lời nói đầu Góp phần
phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã trình bày một tư
tưởng rất quan trọng về mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách
mạng. Ông cho rằng, lý luận cách mạng phản ánh yêu cầu, địa vị lịch sử và hoạt
động đấu tranh của giai cấp cách mạng. Nhưng chỉ bằng lý luận thì không thể xoá
bỏ được áp bức, bóc lột, bất công, mà muốn giải phóng toàn nhân loại thì phải
gắn lý luận với con đường đấu tranh cách mạng. C.Mác cho rằng, lý luận không
chỉ có nhiệm vụ nhận thức ra yêu cầu, địa vị, hoạt động của quần chúng, mà còn
phải có khả năng thâm nhập vào quần chúng và trở thành lực lượng vật chất. Tư
tưởng này được thể hiện tập trung ở trong luận điểm: “Giống như triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết
học là vũ khí tinh thần của mình, và chỉ cần sấm sét của tư tưởng đánh một cách
triệt để vào cái mảnh đất nhân dân còn nguyên vẹn ấy là việc giải phóng người
Đức thành con người sẽ hoàn thành”. “Đầu não của sự giải phóng ấy là triết học,
trái tim của nó là giai cấp vô sản. Triết học không trở thành hiện thực nếu
không xoá bỏ giai cấp vô sản; giai cấp vô sản không thể xoá bỏ được bản thân
mình nếu không làm cho triết học biến thành hiện thực”(3).Tư tưởng
trên của C.Mác cũng được thể hiện rõ nét nhất trong tác phẩm Luận
cương về Phoiơbắc trước khi C.Mác viết tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức. Trong luận đề thứ 11, C.Mác viết: “Các nhà triết học đã giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(4).
Luận đề đó của C.Mác không chỉ chỉ rõ vai trò của triết học đối với hiện thực
mà còn nêu lên một cách vắn tắt và sâu sắc thực chất cuộc cách mạng trong triết
học nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng do C.Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện.
Thứ
hai, quan niệm duy vật về lịch sử
Có
thể nói, C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại phát
hiệnra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Đúng như Ph.Ăngghen đã nói,
“Trên hành tinh của chúng ta, Sáclơ Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của
thế giới hữu cơ. Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối sự vận động và
phát triển của lịch sử loài người”(5). Chính quan niệm duy vật về
lịch sử này đã chấm dứt sự lộn xộn và tùy tiện vẫn thống trị từ trước đến nay
trong các quan niệm về lịch sử và chính trị.
Khởi
đề từ những tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học,
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản... đến tác phẩm Tư bản, C.Mác
xuất phát từ phương thức sản xuất để nghiên cứu sự vận động, biến đổi, phát
triển và quy luật của lịch sử. Ở đó, phương thức sản xuất được hiểu là sự vận
động của lực lượng sản xuất và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất. Đó còn là sự liên kết các lĩnh vực vào một thể thống nhất, tạo
nên tính toàn vẹn và tính cụ thể đặc trưng của một xã hội. C.Mác đã xem xét
tính quy luật chung của sự phát triển lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất
và tính đặc thù của chúng trong các xã hội cụ thể. Nội dung này được thể hiện
tập trung trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Bằng phạm trù hình thái
kinh tế - xã hội, C.Mác đã thực hiện sự phân kỳ lịch sử như tính liên tục của
sự thay thế nhau một cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển, tạo
nên vòng khâu nối tiếp nhau, giữa các nấc thang, các thời đại, cũng như sự kế
thừa, chế ước lẫn nhau giữa các dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Trong
bức tranh sinh động của tiến trình lịch sử - xã hội nổi lên những khuynh hướng
chủ đạo, làm xương sống cho sự biến đổi, sự thay thế cái cũ bằng nhân tố mới,
bảo đảm quá trình vận động đi lên của lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội của C.Mác đã làm sáng tỏ những dấu hiệu phổ biến cho các nấc thang phát
triển của xã hội, cũng như những nét đặc thù cho từng xã hội cụ thể. Học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy
vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con người hiểu được lôgic khách
quan của quá trình tiến hoá xã hội. Nó vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong
cái muôn vẻ của các sự kiện ở các nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau,
chỉ ra những mối liên hệ để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử.
V.I.Lênin đã đánh giá: “lúc đó, tư tưởng ấy chỉ mới còn là giả thuyết, nhưng là
một giả thuyết lần đầu tiên đã tạo ra khả năng có được một thái độ hết sức khoa
học đối với những vấn đề lịch sử và xã hội”(6). C.Mác “đã vạch ra
con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học, coi lịch sử là một quá trình
thống nhất và có quy luật, mặc dầu quá trình đó cực kỳ phức tạp và có nhiều mâu
thuẫn”(7). V.I.Lênin khẳng định, C.Mác đã “có được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên”(8). Tư tưởng này “tự bản thân nó, cũng đã là một
tư tưởng thiên tài rồi”(9). Bằng việc phát hiện ra những quy luật
khách quan của sự phát triển xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân
loại, C.Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới
những con đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức về mặt
xã hội và tạo ra những điều kiện, tiền đề cho một cuộc sống thật sự mang tính
người trong xã hội cộng sản.
Thứ
ba, học thuyết giá trị thặng dư
Học
thuyết giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác. Theo đánh
giá của V.I.Lênin, học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của học thuyết
kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C.Mác là “nội dung căn bản của chủ
nghĩa Mác’’. Nội dung chính của học thuyết phát biểu rằng, sản xuất và chiếm
hữu giá trị thặng dư là hình thức đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản về sản xuất
và chiếm hữu sản phẩm thặng dư, nghĩa là hình thức cao nhất của sự tha hóa con
người đối với hoạt động của mình, đối với sản phẩm từ hoạt động đó, đối với
chính mình, đối với người khác. Qua học thuyết giá trị thặng dư C.Mác đã làm rõ
cơ sở và quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Theo C.Mác, để đạt được
mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua sức lao động của công nhân
kết hợp với tư liệu sản xuất ra sản phẩm, thu về giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư
bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị sức lao động cho người công nhân
thông qua hình thức tiền lương và bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân
sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
Trong
xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ bản, sâu
sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó. Giá trị thặng
dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra bị nhà tư bản
chiếm đoạt, phản ánh mối quan hệ sản xuất cơ bản nhất đó. Giá trị thặng dư do
lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu
của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại của
chủ nghĩa tư bản. Từ việc làm rõ phạm trù giá trị thặng dư - cơ sở của sự tồn
tại và những bất công trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đi đến kết luận khoa học
rằng, sự diệt vong của xã hội tư sản và sự ra đời của chế độ xã hội mới - xã
hội XHCN đều là tất yếu như nhau. Và, trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc quá
trình phát triển của các quan hệ xã hội, C.Mác đã đi đến nhận thức đúng đắn về
vai trò lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới với tư cách lực lượng
có khả năng cải tạo tận gốc các quan hệ xã hội, thủ tiêu tình trạng người bóc
lột người và xây dựng chế độ xã hội mới, tự giải phóng mình và qua đó, giải
phóng nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận định rằng, nền công nghiệp hiện
đại đã sản sinh, nuôi dưỡng một giai cấp vô sản với những đặc trưng cơ bản:
không có tư liệu sản xuất, đối lập với giai cấp tư sản, bị giai cấp tư sản bóc
lột ngày càng nặng nề; có tinh thần cách mạng, đoàn kết, có tính tổ chức kỷ
luật cao. Bởi vậy, giai cấp vô sản chứ không phải bất kỳ một giai cấp nào khác
gánh trên vai mình sứ mệnh cao cả là “người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” để
xây dựng một xã hội mới.
Xã
hội mới mà giai cấp vô sản và nhân dân lao động xây dựng là CNXH. CNXH theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác, là một xã hội hướng đến sự giải phóng triệt để là
phát triển toàn diện con người. Xã hội đó “thoát thai” từ xã hội trước đó;
nhiều tiền đề kinh tế - xã hội đã được chuẩn bị một cách tự nhiên trong lòng xã
hội tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện vật chất cần thiết cho sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản đã ra đời một cách tự phát trong quá trình phát triển của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong
tập I của Tư bản, C.Mác nói về khuynh hướng lịch sử của chủ nghĩa
tư bản và nhân đó nhắc tới quy luật phủ định của phủ định. C.Mác cũng đã nêu ra
mâu thuẫn bản chất trong xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội ngày
càng cao của lực lượng sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối
với tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này sẽ không được giải quyết chừng nào còn chủ
nghĩa tư bản. Do vậy, đây chính là tiền đề cho cuộc đấu tranh giai cấp, cách
mạng xã hội tất yếu xảy ra và nó mở đầu cho một giai đoạn lịch sử mới. C.Mác
viết: “Sự độc quyền của tư bản trở thành xiềng xích ràng buộc cái phương thức
sản xuất đã thịnh vượng lên cùng với độc quyền và dưới độc quyền đó. Sự tập
trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không
còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... Phương thức chiếm
hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra, và do đó
cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế
độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự
nhiên. Đó là sự phủ định của phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế
độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu
của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công
cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm
ra”(10). Nói cách khác, chính sự vận động của những mâu thuẫn nội
tại trong lòng xã hội tư bản đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ
quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Khi
nói về tính tất yếu ra đời CNXH, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Đối với chúng ta,
chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không
phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng
sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện
của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”(11).
Như vậy, những tiền đề cho sự ra đời của CNXH xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư
bản, và sự xuất hiện CNXH là một tất yếu.
V.I.Lênin
nhận xét: “Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học
đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hoá của một giống sinh vật mới một khi đã biết
nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó”(12).
“Ngày nay... chủ nghĩa xã hội đang hiện ra một cách trực tiếp, trên thực tiễn,
trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở của chủ nghĩa
tư bản hiện đại ...”(13). Triển vọng của CNXH không chỉ do CNXH hiện
thực quy định mà còn do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản chuẩn
bị những tiền đề trên nhiều mặt của xã hội hiện đại. Với ý nghĩa đó, “Chủ nghĩa
cộng sản là hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp
tới”(14).
V.I.Lênin
đã khẳng định: “Toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được
những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại nêu ra... Chủ nghĩa Mác là học
thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị
và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa
hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào
bảo vệ sự áp bức của tư sản”(15). Khi nói về giá trị, tính khoa học
và bản chất cách mạng của học thuyết Mác, V.I.Lênin đã khẳng định rằng, toàn bộ
giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó về bản chất là một lý luận có
tính chất phê phán và cách mạng. Bất cứ những quan tâm nào về xã hội, lịch sử
đều có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.
Lịch
sử nhân loại ngày nay đã có nhiều thay đổi lớn lao, nhưng chủ nghĩa Mác vẫn
chứng tỏ được sức sống của nó. Bất cứ những quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều
có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.
Ngoài ra, từ chỗ phản ánh khách quan, khoa học quá trình tất yếu của lịch sử
nhân loại, chủ nghĩa Mác còn cung cấp những quan điểm, nguyên tắc chung, cơ bản
để nhận thức, giải thích chính xác về cơ bản những chế độ xã hội, và con đường
để xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản.
Đánh
giá một cách rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa và giá trị trong những phát kiến khoa
học của C.Mác đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và
nhân loại tiến bộ, V.I.Lênin đã quả quyết khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa duy vật
triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát
khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống
lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích
được địa vị thực sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa”(16).
“Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người XHCN của tất cả các
nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ
và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng, và
kết hợp không phải một cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học
thuyết ấy đã kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của
nhà cách mạng, mà là kết hợp trong chính bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp
nội tại và khăng khít”(17).
_______________________
(1), (15) V.I.Lênin: Toàn tập, t.23,
Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1977, tr.54; 49-50.
(2), (3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn
tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội 1995, tr.157, 159;589-590;
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,
t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1994, tr.12.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,
t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.496.
(6), (8), (9), (17) V.I.Lênin: Toàn
tập, t.1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tr.161; 159, 163; 166, 161;
421.
(7) V.I.Lênin: Toàn tập, t.26,
Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.69.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,
t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.1059-1060.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn
tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.51.
(12) V.I.Lênin: Toàn tập, t.33,
Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.103-104.
(13) V.I.Lênin: Toàn tập, t.34,
Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.258.
(14) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn
tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.183.
(16) V.I.Lênin: Toàn tập, t.23.
Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.57-58.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét