Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
TCCSĐT - Quyền con người và quyền công dân là những nội dung quan trọng
của Hiến pháp. Việc chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân bảo đảm được tính khoa học về kỹ thuật lập hiến; tạo thuận lợi cho
việc hiểu và thực thi quyền con người và quyền công dân trên thực tế là yêu cầu
khách quan.
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 xác định "Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và luật”. Như vậy, lần đầu tiên Hiến pháp năm 1992 đã thừa
nhận cả hai khái niệm quyền con người, quyền công dân, nhưng chưa có sự phân
định rạch ròi: đâu là quyền và nghĩa vụ của con người nói chung và đâu là quyền
và nghĩa vụ của công dân. Nội hàm khái niệm quyền con người được thu nạp vào
nội hàm của phạm trù quyền công dân.
Để khắc phục nhược điểm trên, Điều 15 (sửa đổi, bổ
sung Điều 50) thuộc CHƯƠNG II: QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA
CÔNG DÂN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xác định: 1. Ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Nhà nước và xã
hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Việc xác
định: "Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền con người và
quyền công dân” là để bảo đảm tính khoa học về kỹ thuật lập hiến cho việc thực
hiện cả hai quyền này. Tuy vậy, thuật ngữ "bảo đảm” được xác định trong
điều này liền sau việc đã "thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ” là chưa bảo đảm
được tính khoa học của luật pháp quốc tế, vì bản thân nội hàm của thuật ngữ
"bảo đảm” đã gồm các hàm nghĩa: thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thực hiện
(hai quyền này trên thực tế).
Việc chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân, do đó, chưa thực sự bảo đảm được tính khoa học về kỹ thuật
lập hiến; từ đó có thể gây rào cản cho việc hiểu và thực thi quyền con người và
quyền công dân trên thực tế. Từ thực tế trên đây cần thiết phải làm rõ và so
sánh quyền con người và quyền công dân để chế định trong Hiến pháp cho phù hợp.
Về khái niệm quyền con người và quyền công dân
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ "quyền con
người”, còn có thuật ngữ "nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn
từ thuật ngữ tiếng Anh "human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng
Việt là quyền con người; còn nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền. Xét về mặt
ngôn ngữ học, theo Đại Từ điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai
từ đồng nghĩa (1).
Nhân quyền, ở góc độ khái quát nhất, theo Liên hợp
quốc, có thể hiểu là những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được
bảo đảm thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người (2). Tại Việt Nam, một
số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng
nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường
được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp
lý quốc tế.
Thuật ngữ "công dân”, theo Từ điển Merriam
Webster’s Collegiate Dictionary, "công dân (citizen) là một thành viên của
một nhà nước mà người đó có nghĩa vụ trung thành và được hưởng sự bảo vệ”. Cũng
như thuật ngữ nhân quyền, có nhiều định nghĩa về quyền công dân (citizen’s
right), tuy vậy, theo một nghĩa khái quát nhất, có thể hiểu quyền công dân là
những lợi ích pháp lý được các nhà nước thừa nhận và bảo vệ cho những
người có quốc tịch của nước mình.
Sự khác biệt giữa quyền con người và quyền công dân
Một là, tư tưởng về
quyền con người được hình thành cùng với sự xuất hiện của những nền văn minh cổ
đại. Còn khái niệm quyền công dân chỉ xuất hiện cùng với cách mạng tư
sản. Vì cách mạng tư sản đã đưa con người từ địa vị thần dân trở
thành công dân - với tư cách là những thành viên bình đẳng trong một
nhà nước, và pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con người dưới
hình thức các quyền công dân. Như vậy, khái niệm quyền công dân xuất hiện
sau khái niệm quyền con người.
Hai là, xét tổng
quát, quyền công dân có nội hàm hẹp hơn so với quyền con người, do quyền công
dân chỉ là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp
dụng cho riêng công dân của mình. Chẳng hạn, trong một số trường hợp, hiến
pháp của một số quốc gia có thể quy định những quyền vốn không được nêu trong
luật nhân quyền quốc tế, như quyền sở hữu và sử dụng súng. Tuy nhiên, đây chỉ
là một số trường hợp ngoại lệ. Xét tổng quát, các quyền hiến định trong hiến
pháp của các quốc gia đều đã được ghi nhận hoặc hàm chứa trong các quyền đã
được ghi nhận bởi luật nhân quyền quốc tế.
Ở nhiều góc độ khác nhau - xem so sánh, có thể
chứng minh quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Ví dụ,
về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa
cá nhân với nhà nước như quyền công dân, mà thể hiện mối quan hệ giữa
cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do
không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, nên chủ thể của quyền con
người là tất cả các thành viên của gia đình nhân loại, bất kể vị
thế, hoàn cảnh, quốc tịch,... Nói cách khác, quyền con người được
áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc
đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới
quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.
So sánh quyền con người, quyền công dân
Lịch sử:
Quyền con người: Tư tưởng xuất hiện trong các nền
văn minh cổ đại; luật nhân quyền quốc tế chỉ có từ 1945
Quyền công dân: Từ cách mạng tư sản (khoảng
thế kỷ 16)
Công cụ ghi nhận và bảo đảm:
Quyền con người: Luật quốc tế (toàn cầu và khu vực)
và luật quốc gia
Quyền công dân: Luật quốc gia (trước hết là hiến
pháp)
Nội hàm:
Quyền con người: Những tự do và bảo đảm mà mọi
thành viên trong gia đình nhân loại được hưởng và được cộng đồng quốc tế bảo vệ
Quyền công dân: Những tự do và bảo đảm mà một
quốc gia dành cho các công dân của nước mình
Tính chất:
Quyền con người: Tự nhiên, vốn có, không do chủ thể
nào ban phát. Thể hiện vị thế của mỗi cá nhân trong quan hệ với quốc gia mà cá
nhân đó là công dân và với cộng đồng nhân loại
Quyền công dân: Do các nhà nước xác định bằng pháp
luật. Thể hiện vị thế của mỗi cá nhân trong quan hệ với quốc gia mà cá nhân đó
là công dân
Đặc điểm:
Quyền con người: Áp dụng toàn cầu; đồng nhất trong
mọi hoàn cảnh; không thay đổi theo thời gian
Quyền công dân: Áp dụng trong lãnh thổ quốc
gia; không hoàn toàn giống nhau giữa các quốc gia; có thể bị thay đổi theo thời
gian
Chủ thể có quyền:
Quyền con người: Mọi thành viên của nhân loại, bất
kể dân tộc, chủng tộc, thành phần xuất thân, tôn giáo, tư tưởng, giới tính, độ
tuổi,…
Quyền công dân: Chỉ những người có quốc tịch
của một quốc gia
Chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm:
Quyền con người: Các nhà nước là chủ thể chính,
ngoài ra các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân.. đều có trách
nhiệm
Quyền công dân: Các nhà nước là chủ thể chính,
ngoài ra các doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân… cũng có trách nhiệm
Cơ chế bảo vệ:
Quyền con người: Các diễn đàn, thủ tục điều tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm nhân
quyền của Liên hợp quốc và một số tổ chức liên chính phủ khu vực
Quyền công dân: Toà án và một số cơ chế
tài phán khác ở mỗi quốc gia. Trong một số trường hợp, các cơ chế quốc tế được
áp dụng như là giải pháp tiếp nối
Nhóm quyền chủ yếu:
Quyền con người: Kinh tế, xã hội, văn hóa
Quyền công dân: Dân sự, chính trị
Một cá nhân, ngoại trừ những người không
quốc tịch, xét về danh nghĩa, luôn đồng thời là chủ thể của cả hai
loại quyền (con người và công dân). Sự phân biệt trong việc thụ hưởng
hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc
biệt. Chẳng hạn, một người nước ngoài sẽ không được hưởng một số
quyền công dân (và cũng là những quyền con người) đặc thù, như quyền
bầu cử, ứng cử,...; nhưng người đó vẫn được hưởng các quyền con
người phổ biến (mà đồng thời cũng là các quyền công dân) áp dụng
cho mọi thành viên của nhân loại trong mọi hoàn cảnh, như quyền sống,
quyền tự do và an ninh cá nhân,...
Có thể nói, quyền công dân không phải là hình
thức toàn diện của quyền con người. Với ý nghĩa là một khái niệm
gắn liền với nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với nhà
nước, được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là
chế định quốc tịch, quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên
được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm, nhưng chủ yếu dành
cho những người có quốc tịch của nước đó. Không phải ai cũng được
hưởng các quyền công dân của một quốc gia nhất định, và không phải
hệ thống quyền công dân của mọi quốc gia đều giống hệt nhau, cũng như
đều hoàn toàn tương thích với hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về
quyền con người.
Ba là, đa số hiến
pháp các nước đều quy định rạch ròi quyền công dân và quyền con người; và đều
sử dụng cả hai thuật ngữ công dân và mọi người. Những quyền dành cho công dân
thì chế định "công dân có quyền,...”; những quyền dành cho mọi người thì
sử dụng thuật ngữ mọi người/hoặc không ai. Thí dụ: không ai bị bắt, giam giữ vô
cớ, hoặc bị tra tấn, nhục hình.
Dù quy định theo cách nào thì quyền con người,
quyền công dân cũng là một nội dung quan trọng, có tính xuyên suốt trong hiến
pháp của các quốc gia. Một công trình nước ngoài, trên cơ sở khảo cứu 420 bản
hiến pháp của các quốc gia trên thế giới, đã thống kê có đến gần 60 quyền con
người được chế định trong hiến pháp các nước và luật nhân quyền quốc tế (3). Cụ
thể: 1/ Quyền sống; 2/ Tự do biểu đạt; 3/ Tự do tôn giáo, tín ngưỡng; 4/ Tự do
hội họp; 5/ Tự do lập hội; 6/ Tự do báo chí; 7/ Tự do tư tưởng, ý kiến, quan
điểm; 8/ Cấm kiểm duyệt; 9/ Quyền được thành lập hoặc gia nhập công đoàn; 10/
Tự do đi lại; 11/ Quyền bảo vệ đời tư; 12/ Quyền sở hữu tài sản; 13/ Quyền được
lựa chọn nghề nghiệp; 14/ Cấm chế độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động;
15/ Quyền có quốc tịch; 16/ Cấm hồi tố; 17/ Không bị trừng phạt khi luật chưa
quy định là tội phạm; 18/ Quyền không bị tước tự do một cách tùy tiện; 19/
Quyền được suy đoán vô tội; 20/ Quyền được im lặng hoặc không phải tự chứng
minh mình không phạm tội; 21/ Quyền được yêu cầu xem xét lại việc bắt giữ mình;
22/ Quyền được kháng cáo; 23/ Quyền được xét xử công khai; 24/ Quyền không bị
xét xử hai lần vì cùng một hành vi phạm tội; 25/ Cấm tra tấn, đối xử tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục; 26/ Quyền được tại ngoại chờ xét xử; 27/ Quyền được
xét xử công bằng; 28/ Quyền được đền bù khi bị xét xử oan sai; 29/ Quyền được
sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình trong tố tụng; 30/ Quyền được có thị trường
tự do; 31/ Quyền được xét xử nhanh chóng; 32/ Các quyền của trẻ em; 33/ Các
quyền của người không quốc tịch; 34/ Quyền được trả thù lao công bằng và thích
đáng; 35/ Quyền được tự do kinh doanh; 36/ Quyền được đình công; 37/ Quyền được
đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, lành mạnh; 38/ Các quyền về sở hữu trí tuệ;
39/ Quyền được chăm sóc y tế; 40/ Nghĩa vụ của nhà nước phải cung cấp dịch vụ y
tế miễn phí; 41/ Quyền được kết hôn; 42/ Quyền được lập gia đình; 43/ Quyền
được hưởng chuẩn mực sống thích đáng; 44/ Cấm sử dụng lao động trẻ em; 45/ Cấm
trừng phạt thể chất; 46/ Cấm hình phạt tử hình; 47/ Các quyền đặc biệt của trẻ
em trong tố tụng hình sự; 48/ Quyền được có nơi ở; 49/ Quyền tự quyết dân tộc;
50/ Quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ; 51/ Quyền được
hưởng những thành quả của khoa học; 52/ Quyền thừa kế; 53/ Quyền được bảo vệ
danh dự; 54/ Quyền được chuyển nhượng tài sản; 55/ Quyền được xin thôi quốc
tịch; 56/ Quyền được di chúc để lại tài sản; 57/ Quyền thay thế nghĩa vụ quân
sự vì lý do lương tâm; 58/ Quyền của người tiêu dùng; 59/ Một số quyền của lao
động chưa thành niên.
Tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công
dân
Một là, theo nghĩa
rộng, cả thuật ngữ "quyền con người” và "quyền công dân” đều là những
phạm trù triết học dùng để biểu thị mối quan hệ của cá nhân con người với cộng
đồng nhân loại (quyền con người) và với quốc gia nơi mà người đó có quốc tịch
(quyền công dân)
Quyền con người và quyền công dân đều xoay quanh
một chủ thể chung (của quyền), đó là con người, và một chủ thể chung khác (có
nghĩa vụ) là các cộng đồng nhân loại mà thể chế chính trị - pháp lý trung tâm
của nó là nhà nước. Thêm vào đó, quyền con người và quyền công dân, về bản
chất, đều là những gì mà một cá nhân con người được phép làm và được thừa nhận,
tôn trọng, bảo vệ bởi các chủ thể khác. Chính vì thế mà quyền con người và
quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi, và trong nhiều bối cảnh hầu
như không có sự phân biệt với nhau.
Hai là, các quyền con
người, quyền công dân, được pháp điển hóa vào hiến pháp các nước trên thế giới
theo những cách thức nhất định
Tuy là hai phạm trù khác nhau, nhưng quyền con
người và quyền công dân hầu như không mâu thuẫn mà ngược lại, có sự thống nhất,
bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Nhìn chung, các quyền con người, quyền công dân, được
pháp điển hóa vào hiến pháp các nước trên thế giới theo ba cách cơ bản
sau:
Cách thứ nhất: Đề cập trực tiếp thành các điều
khoản trong một chương riêng (có tên là "quyền con người”, "quyền con
người, quyền công dân” hoặc ‘quyền công dân”…) hoặc rải rác trong một số chương
của hiến pháp. Đây là cách hiến định nhân quyền phổ biến nhất hiện nay, được đa
số quốc gia, trong đó có Việt Nam, áp dụng.
Cách thứ hai: Các quyền con người, quyền công dân
được quy định trong một văn bản riêng và được thừa nhận như là một cấu phần của
Hiến pháp. Ví dụ, Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1689 và Bộ luật về quyền năm 2008
được coi là hai văn bản nguồn của Hiến pháp nước Anh. Một ví dụ tiêu biểu khác
là nước Pháp. Lời mở đầu của Hiến pháp năm 1958 (hiện hành) của nước này quy
định: "Nhân dân Pháp trung thành với bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền 1789”. Điều đó có nghĩa là bản Tuyên ngôn (được ban hành trước Hiến pháp
hơn 150 năm) nhưng sau đó đã được thừa nhận như là một nội dung của Hiến pháp.
Cách thứ ba: Không quy định trực tiếp trong nội
dung mà cũng không thành một văn bản riêng, mà được xác định như là những điều
bổ sung của Hiến pháp. Đây là trường hợp của Hoa Kỳ. Hiến pháp Hoa Kỳ ban đầu
không có quy định trực tiếp nào về nhân quyền, nhưng sau đó được bổ sung 10 tu
chính án quy định về các quyền cơ bản mà sau này được gọi là Bộ luật về các
quyền của Mỹ.
Ba là, không chỉ
quyền công dân mà cả quyền con người cũng chịu sự quy định của sự giới hạn
quyền
Giới hạn của quyền nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa các
quyền của cá nhân và các quyền của tập thể (cộng đồng, quốc gia, dân tộc), cũng
như việc thụ hưởng quyền giữa các cá nhân với nhau. Luật nhân quyền quốc tế quy
định giới hạn áp dụng của một số quyền (limitation of rights) trong một số điều
ước quốc tế về quyền con người. Bản chất của các quy định này là cho phép các
quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện với việc thực hiện/hưởng thụ một số
quyền con người nhất định nhằm các mục đích như thúc đẩy phúc lợi chung của
cộng đồng, bảo vệ an ninh quốc gia (national security), để bảo đảm an toàn cho
cộng đồng (public safety), để bảo vệ sức khỏe hay đạo đức của cộng đồng (public
health or moral), và để bảo vệ các quyền, tự do hợp pháp của người khác (rights
and freedoms of others). Chẳng hạn Điều 4 của Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị (ICCPR, 1966)) quy định rằng, trong những bối cảnh khẩn cấp đe
dọa sự sống còn của đất nước (state of emergency), các quốc gia có thể áp dụng
những biện pháp hạn chế việc thực hiện các quyền nêu trong Công ước này
(derogation of rights). Về bản chất, những quy định này là sự tạm đình chỉ thực
hiện một số quyền dân sự, chính trị trong một thời gian nhất định do bối cảnh
khẩn cấp của quốc gia, thông qua một số biện pháp cụ thể như: thiết quân luật
(trên cả nước, ở một khu vực hay một địa phương); cấm biểu tình, hội họp đông
người; cấm hoặc hạn chế hoạt động của một số cơ quan thông tin đại chúng như
truyền hình, phát thanh, báo..; cấm đi lại ra, vào một khu vực hoặc xuất, nhập
cảnh (với một số cá nhân hay nhóm),…
Với tính chất là một văn kiện pháp luật quốc gia,
hiến pháp của nhiều nước cũng quy định về giới hạn của các quyền con người,
quyền công dân nhằm những mục đích nêu trên. Quy định về vấn đề này ít nhiều
khác nhau trong hiến pháp các nước, nhưng giới hạn thường được áp dụng với các
quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại,... Cũng tương tự như luật
nhân quyền quốc tế, hiến pháp một số nước có quy định về những giới hạn áp dụng
chung cho mọi quyền, đồng thời có quy định về giới hạn áp dụng riêng cho một số
quyền cụ thể.
Ở cấp độ quốc gia, theo nghiên cứu của Dự án Hiến
pháp so sánh (Comparative Constitutions Project - CCP) (4), ở thời điểm năm
2000, xét chung ở các khu vực, có hơn 80% số hiến pháp quy định về việc tuyên
bố tình trạng khẩn cấp, gấp đôi so với cuối thế kỷ XIX. Tại một số khu vực, có
đến gần 100% số hiến pháp quy định về vấn đề này. Tình trạng khẩn cấp thường
được tuyên bố khi xảy ra thảm họa thiên tai, bạo động hoặc tuyên bố chiến
tranh. Nhiều quốc gia quy định rõ về tình trạng khẩn cấp trong hiến pháp hoặc
luật nhằm tránh sự lạm dụng. Một số quốc gia tuyên bố tình trạng khẩn cấp gần
đây là: Philíppin (tháng 2-2006) sau khi có cuộc đảo chính chống lại chính
quyền, Hy Lạp (tháng 8-2007) khi bị cháy rừng, Pakixtan (tháng 11-2007), Thái
Lan (tháng 9-2008) đối phó với bất ổn do biểu tình…
Trong bối cảnh tình trạng khẩn cấp, hiến pháp của
các quốc gia cũng quy định về tạm đình chỉ thực hiện một số quyền dân sự, chính
trị đồng thời xác định rõ một số quyền sẽ không bị đình chỉ thực hiện kể cả
trong bối cảnh này như được đề cập trong luật nhân quyền quốc tế (5).
Kết luận
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù
khác nhau, song có mối liên hệ rất chặt chẽ, tác động, bổ sung lẫn nhau. Khái
niệm và viễn cảnh về quyền con người có thể được nhìn nhận qua lăng kính của
quyền công dân và ngược lại. Thực tế cho thấy sự gắn bó giữa quyền con người và
quyền công dân ngày càng trở lên mật thiết, đến nỗi trong một số trường hợp rất
khó phân biệt và trong một số bối cảnh không cần thiết phải phân biệt giữa
chúng (ví dụ các quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm,…). Sự
tương đồng kể trên khiến cho những nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trở lên khăng khít, không thể tách rời, kể cả khi những nỗ lực
này gắn liền với những chủ thể tương đối khác nhau.
Mặc dù vậy, do những khác biệt nhất định về tính
chất, đối tượng và phạm vi điều chỉnh, quyền con người và quyền công dân vẫn sẽ
phát triển theo hai "kênh” khác nhau mà sẽ không bao giờ hoà nhập hoàn
toàn, trừ khi xã hội loài người không còn nhà nước và pháp luật. Điều này đòi
hỏi các chủ thể có liên quan, đặc biệt là các tổ chức quốc tế, các nhà nước và
các tổ chức xã hội dân sự ở các quốc gia cần tiếp tục xây dựng và củng cố các
cơ chế hợp tác để cùng thúc đẩy và bảo vệ cả quyền con người và quyền công dân
trên mọi cấp độ: quốc gia, khu vực và quốc tế./.
----------------------------------------------------------------
Viện Ngôn ngữ học, Đại từ điển
tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H, 1999, tr.1239.
(2) United Nations, Human Rights: Questions and
Answers (Quyền con người: hỏi và đáp), New York and Geneva, 2006, tr.4.
(3) Xem: Constitutional Convergence in Human Rights? The Reciprocal
Relationship between Human Rights Treaties and National Constitutions, tài liệu
đã dẫn, tr.19-21.
(4) CCP khảo sát 550/800 bản Hiến pháp thành văn đã
được ban hành trên thế giới từ năm 1789, trong đó hơn 90% được thông qua sau
Chiến tranh Thế giới II. Số liệu khảo sát ở mục này cập nhật đến ngày
22/5/2008. Xem dữ liệu của CCP tại
http://www.constitutionmaking.org/reports.html
(5) Xem Comparative Constitutional Rights Chart của Arthur W. Diamond Law Library,ColumbiaLawSchool,tại
http://www.hrcr.org/chart/limitations+duties/limits_general.html
Nguồn: http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/119/484
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét