Nguyễn Văn Sự
(TG) - Thành công của Đảng trong hoạch
định đường lối và phương pháp cách mạng thời kỳ 1930- 1945 bắt nguồn từ bản
lĩnh, trí tuệ, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong việc tiếp thu và vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, có tham khảo những kinh nghiệm tốt của
thế giới nhưng không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ (Ảnh tư liệu)
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với tầm vóc vĩ
đại trong tiến trình cách mạng Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn lịch sử và được
khai thác nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó có bài học về sự sáng
tạo trong đường lối và phương pháp cách mạng, thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa phản đế và phản phong.
Nếu C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những
người đặt nền móng cho việc hình thành lý luận về giải quyết mối quan hệ dân
tộc và giai cấp trong thời đại mới, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam là những người đầu tiên đã thành công trong việc vận dụng và
phát triển sáng tạo lý luận đó vào điều kiện cụ thể ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến.
Ngay từ khi mới ra đời, Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng (2-1930) đã nhận thấy yêu cầu khách quan, bức thiết nhất của xã hội thuộc
địa như Việt Nam là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ
chưa phải là đấu tranh giai cấp lên cao như ở các nước tư bản phương Tây. Đối
tượng trực tiếp của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ chưa phải là
chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản nói chung. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác
định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Chủ trương đó đáp
ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều lý do
khác nhau, Luận cương chính trị được thông qua tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (10-1930) đã không kế thừa được những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của
Cương lĩnh đầu tiên trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống
đế quốc và chống phong kiến.
Duyệt đội quân du kích
ở các chiến khu về Hà Nội ngày 30/8/1945.
Khi
chiến tranh thế giới lần thứ Hai bùng nổ, liên tiếp trong ba hội nghị: lần thứ
Sáu (11-1939), lần thứ Bảy (11-1940), và đặc biệt là Hội nghị lần thứ Tám Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, trên cơ sở phân
tích chuẩn xác những biến chuyển của tình hình thế giới và Đông Dương, đã quyết
định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược với chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc
và Việt gian tay sai để giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu
“Cách mạng ruộng đất”. Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khẳng
định: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ
trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”(1). Vấn đề ruộng đất mà hội
nghị bàn đến chỉ là chia lại công điền, và chia ruộng đất “tịch thu của Việt
gian phản quốc”, tức là ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ không
phải của địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và
kinh tế. Vì thế, “Trong khi tuyên truyền, không được dùng những khẩu hiệu quá
thời... Không nên nói đánh đổ Nam triều phong kiến và tịch thu ruộng đất của
địa chủ mà nói diệt trừ bọn Việt gian phản quốc”(2).
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc
của Đảng tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương
Đảng (2-1943): “Lúc này, nhiệm vụ dân tộc giải phóng cần kíp và quan trọng hơn.
Nên Đảng phải thống nhất mọi lực lượng cách mạng đặng mau hoàn thành nhiệm vụ
ấy trước... Do đó khẩu hiệu thổ địa cách mạng không thể đề ra lúc này”(3).
Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943) đều xác định nhiệm vụ và mục
tiêu chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam là đánh đổ đế quốc,
phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Đó là chủ trương
đúng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như yêu cầu tập hợp lực lượng cách
mạng cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, chủ trương đó đã có thời kỳ
vấp phải sự phản ứng và phê phán gay gắt từ phía Quốc tế Cộng sản và những
người cùng chung chí hướng. Song bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình, Đảng ta,
đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, vượt qua các rào cản của những tư
tưởng và khuôn mẫu giáo điều, kiên định với mục tiêu đã định. Nhờ đó, Đảng đã
quy tụ và tập hợp được sức mạnh và lực lượng của toàn thể quốc gia dân tộc, làm
nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó chính là biểu hiện rõ
nhất của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về giải quyết mối quan hệ dân
tộc và giai cấp, cũng như góp phần làm phong phú lý luận đó từ điều kiện cụ thể
ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Ngày 28/8/1945, Đoàn Giải phóng quân ở Việt Bắc về duyệt binh ở
Quảng trường Nhà hát Lớn.
Hai là, sáng tạo trong tập hợp lực lượng cách mạng
giải phóng dân tộc.
Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm, cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng và đi sâu bàn về liên minh công nông, coi đó là
nguyên tắc của cách mạng vô sản, thì Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam
lại cho rằng lực lượng cách mạng là toàn dân, tuy nhiên vị trí vai trò của từng
giai cấp, bộ phận lại không giống nhau. Theo đó, bộ phận trung tâm trong lực
lượng cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là liên minh công nông do giai
cấp công nhân lãnh đạo. Trung thành với lý luận Mác - Lênin về liên minh công
nông và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, song việc đánh giá vai trò của
giai cấp nông dân trong khối liên minh ấy của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản
Việt Nam có những nét mới rất sáng tạo. Nếu chủ nghĩa Mác- Lênin nhấn mạnh hạn
chế của giai cấp nông dân ở tính chất tư hữu, thì Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta chỉ
nêu hạn chế của họ là không có khả năng tự giải phóng, không có khả năng lãnh
đạo cách mạng; đồng thời, nhấn mạnh mặt tích cực của nông dân, nhất là khả năng
đấu tranh chống áp bức giai cấp và áp bức dân tộc của họ. Nguyễn Ái Quốc cho
rằng: nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa
số trong dân tộc. Vì thế, cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân là lực
lượng chủ công của cách mạng.
Nếu chủ nghĩa Mác - Lê nin coi tiểu tư sản, trí thức là tầng lớp trung gian trong
cách mạng vô sản, thì Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam lại coi tầng lớp
này là đồng minh gần gũi của công nhân và nông dân. Cương
lĩnh năm 1930 khẳng định: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông (...) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”, đồng thời khẳng
định tiểu tư sản là một trong những động lực của cách mạng...”.
Trọng trí thức là một chính sách được Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh sớm quan tâm và được Đảng nhận thức ngày càng cụ thể, rõ
ràng hơn trong quá trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta. Sự có
mặt của tiểu tư sản, trí thức; vai trò ngày càng tích cực của tiểu tư sản trí
thức, sinh viên, học sinh thông qua các cuộc đấu tranh rất sôi nổi ở các đô thị
trước và trong Cách mạng Tháng Tám 1945 đã chứng minh cho sự nhận định đúng đắn
của Hồ Chí Minh và Đảng ta về năng lực hoạt động cách mạng của những đội ngũ
này.
Ngày 2/9/1945, tại
Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong khi lý luận của C.Mác coi toàn bộ giai
cấp tư sản là đối tượng của cách mạng vô sản thì V.I.Lênin là người đầu tiên
nhận thấy và đánh giá cao vai trò của giai cấp tư sản dân tộc. Cả V.I.Lênin và
Hồ Chí Minh đều nhận rõ hạn chế lớn nhất của giai cấp này là tính không triệt
để trong cách mạng. Cùng với ưu điểm là tính dân chủ, thì Hồ Chí Minh còn nhấn
mạnh nhiều hơn đến yếu tố dân tộc trong tầng lớp này. Thời kỳ 1936-1939, Đảng
đã chủ trương tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, “không những chỉ có
nhân dân lao động mà gồm cả giai cấp tư sản dân tộc”. Đặc biệt, tới Hội nghị
Trung ương 8 (5-1941), đã xác định tư sản dân tộc đứng trong lực lượng “hậu bị
quân của cách mạng”.
Trong điều kiện hoàn cảnh
cụ thể của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phân
biệt rõ đặc điểm và thái độ của từng bộ phận trong giai cấp địa chủ phong kiến,
thấy rõ những yếu tố tích cực để lôi kéo họ về hàng ngũ cách mạng. Vì thế, chủ
trương của Đảng ngay từ đầu đã xác định: bộ phận đại địa chủ phong kiến mà
quyền lợi hoàn toàn gắn bó với đế quốc, đứng hẳn về phía phản cách mạng thì
phải kiên quyết đánh đổ. Còn lại, bộ phận tiểu, trung địa chủ, và số ít đại địa
chủ mà thái độ còn đang “lừng chừng”, do dự thì phải tranh thủ họ, lôi kéo họ
về phía cách mạng để chống kẻ thù dân tộc hoặc “ít lâu làm cho họ đứng trung
lập”.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở nước
thuộc địa nửa phong kiến, mà cụ thể là ở Việt Nam không hề bó hẹp trong khuôn
mẫu của lý luận, mà là toàn thể dân tộc, đoàn kết thành một khối thống nhất,
dưới sự lãnh đạo của Đảng (bao gồm các giai cấp, tầng lớp có lòng yêu nước, có
tinh thần dân tộc). Đó là một đóng góp vừa sáng tạo, vừa thực tế.
Ba là, sáng tạo trong lựa chọn phương pháp đấu tranh
giành độc lập dân tộc. Đó là những vấn đề thuộc về
phương pháp cách mạng. Phương pháp cách mạng là phương thức chuẩn bị và tiến
hành để thực hiện mục tiêu cách mạng.
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra tính
tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới; đồng thời
chỉ rõ những nguyên tắc cơ bản để khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi. Quan
điểm tổng khởi nghĩa của Lênin là sự cụ thể hóa chủ nghĩa Mác ở một nước đang
phát triển. Cách mạng Tháng Mười Nga được tiến hành bằng khởi nghĩa vũ trang,
trong đó, về lực lượng, ngoài giai cấp công nhân còn thêm nông dân, binh lính,
quân đội cách mạng; khởi nghĩa diễn ra trước hết ở đô thị, sau đó mới toả về
nông thôn nắm chính quyền. Đảng Cộng sản Trung Quốc thì chủ trương “lấy nông dân
làm quân chủ lực”, “lấy nông thôn bao vây thành thị”. Từ quan điểm bạo lực như
vậy nên chiến tranh cách mạng ở Trung Quốc thực chất là chiến tranh của nông
dân, chiến tranh của quân đội. Nhiệm vụ chính và hình thức cao nhất của cách
mạng Trung Quốc là dùng vũ trang đoạt lấy chính quyền, “chính quyền đẻ ra trên
nòng súng”.
Còn ở Việt Nam, từ khi ra đời và trong suốt
quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, các văn kiện, nghị quyết của
Đảng đều khẳng định, bạo lực cách mạng là phương thức để xoá bỏ các mâu thuẫn
đối kháng trong xã hội nước ta. Sức mạnh bạo lực là sức mạnh của toàn dân tộc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả
của một quá trình chuẩn bị đấu tranh cách mạng lâu dài, trải qua 3 lần tổng
diễn tập: cao trào cách mạng 1930-1931, 1936- 1939 và 1939-1945. Đó là một cuộc
cách mạng bạo lực kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang;
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh chính trị làm
chính. Hình thái khởi nghĩa là từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa, gắn việc giành chính quyền về tay nhân dân với việc bảo vệ thành quả
cách mạng. Đây chính là một điển hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh trong
việc vận dụng lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang.
Những sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường
lối và phương pháp cách mạng chính là nhân tố hàng đầu đưa đến thắng lợi vĩ đại
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; là cơ sở để Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển
và hoàn thiện đường lối, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
đến thắng lợi, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thu non sông
về một mối; góp phần bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm kho tàng lý luận
Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến.
Thành công của Đảng trong hoạch định đường lối
và phương pháp cách mạng thời kỳ 1930- 1945 bắt nguồn từ bản lĩnh, trí tuệ,
tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại trong việc tiếp thu và vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, có tham khảo những kinh nghiệm tốt của thế giới
nhưng không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào. Bài học đó vẫn còn nguyên
giá trị trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay./.
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2000, t.7, tr.118-119, 127. (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr.160.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét