Hoàng Thị Lan
Kế thừa tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Đảng ta đã nhìn nhận
vấn đề tôn giáo với tư duy mới và nhờ đó đã đưa lại những cách làm mới trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
Kế thừa những quan niệm đúng đắn của các nhà triết học duy vật đi trước, Mác - Ăngghen đã vạch ra một cách khoa học nguồn gốc, bản chất, tính chất và vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Khi
bàn về vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, Mác - Ăngghen cho rằng, sự
ra đời của tôn giáo một mặt là sự phản ánh hiện thực khách quan, mặt khác nó
còn là sự phản kháng xã hội hiện thực với quá nhiều bất công, đau khổ. Mác -
Ăngghen, khi bàn đến vai trò của tôn giáo, cũng đã lưu ý đến khía cạnh tôn giáo
là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, nhu cầu của sự phát triển xã hội trong
những thời kỳ lịch sử nhất định.
Ăngghen, khi nghiên cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ cũng đã thừa nhận nó như
là sự phản ánh khát vọng của những người nô lệ và trong bản thân nó có những
điểm tương đồng với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong lịch sử đạo
Cơ Đốc sơ kỳ có những điểm giống đáng lưu ý với phong trào công nhân hiện đại,
đạo Cơ Đốc nảy sinh như là một phong trào của những người bị áp bức; lúc đầu nó
là tôn giáo của những người nô lệ và nô lệ đã được tha, của người nghèo và
người vô quyền, của các dân tộc bị La Mã chinh phục hoặc đuổi đi tản mát. Cả
đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội công nhân đều tuyên truyền sự giải phóng con
người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và nghèo khổ”(1).
Trên
lập trường duy vật vô thần triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin dù có thừa nhận
những giá trị tích cực nhất định của tôn giáo, song vẫn phê phán nó, vì xét cho
cùng, tôn giáo vẫn hướng con người vào một thế giới ảo tưởng, an ủi họ quên nỗi
đau khổ ở cuộc sống hiện thực và hứa hẹn sự đền bù cho họ ở một thế giới siêu
nhiên. Trong khi đó, để khắc phục những khổ đau ở cuộc sống trần thế, con người
cần phải có phương tiện hiện thực, có nghị lực, dũng cảm sáng tạo vượt qua
trong xã hội hiện thực. Ăngghen đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa đạo Cơ
Đốc và chủ nghĩa xã hội, đó là: “Đạo Cơ Đốc tìm sự giải thoát ấy trong cuộc
sống trên trời, ở thế giới bên kia sau khi chết, còn chủ nghĩa xã hội thì tìm
nó ở thế giới bên này, ở việc tổ chức lại xã hội”(2).
Theo
Mác - Ăngghen, sự phản kháng của tôn giáo về cơ bản vẫn mang tính tiêu cực, thụ
động, nó khuyên con người chấp nhận hiện thực để mỗi người tự hoàn thiện mình,
tách khỏi mọi mối quan hệ của xã hội hiện thực.
Tiếp
tục quan điểm của Mác - Ăngghen, V. I. Lênin bổ sung, phát triển, hoàn thiện
thêm và chỉ ra vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, về cơ bản, là tác
động tiêu cực. Tôn giáo dạy cho con người chịu đựng những đau khổ để chờ đợi
những điều tốt đẹp ảo tưởng, không có thực: “Những điều thiêng liêng của đạo
chính thống quý báu là ở chỗ nó dạy người ta chịu đựng đau khổ “không một tiếng
kêu ca”! Thực tế, điều thiêng liêng đó có lợi cho giai cấp thống trị biết chừng
nào!…tôn giáo dạy người ta chịu đựng “không một tiếng kêu ca”cái địa ngục trần
gian để chờ đợi một thiên đường nào đấy”(3).
Lênin
cho rằng, một mặt tôn giáo đem lại cho con người sự an ủi mơ hồ, răn dạy họ
nhẫn nhục trong cuộc sống thực để hy vọng được đền bù ở cõi sống khác, mặt khác
tôn giáo là sự biện hộ cho các thế lực bóc lột và khuyên những người bị bóc lột
hãy cam chịu cuộc sống hiện tại. Người viết: “Đối với những ai suốt đời vẫn lao
động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ phải sống theo tinh thần
cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới trần gian, bằng cách làm cho họ hy
vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đường. Còn đối với những kẻ sống bằng lao
động của người khác, tôn giáo dạy họ hãy làm điều thiện ở thế gian, biện hộ một
cách rẻ tiền cho toàn bộ cuộc đời bóc lột của chúng, và bán rẻ cho chúng những
tấm thẻ để lên thiên đường của những người hạnh phúc”(4).
Lênin
đã chỉ ra rằng, khi tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm công cụ chính trị
thì nó trở thành “thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất
phẩm cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để được sống một cuộc
đời đôi chút xứng đáng với con người”(5).
Tôn giáo được Lênin xem xét gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga và châu
Âu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, Lênin nói đến vai trò tiêu cực
của tôn giáo và giáo hội cũng trong một tình huống rất cụ thể: tôn giáo và giáo
hội tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm công cụ để bảo vệ chế độ bóc lột,
đầu độc quần chúng bị áp bức. Lúc này, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản đã trở nên gay gắt và trong xã hội đó, “Tôn giáo là một trong những
hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần
chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải
chịu cảnh bần cùng cô độc”(6).
Do điều kiện và yêu cầu của cách mạng đương thời, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu các khía
cạnh khác như văn hóa, tâm lý, tình cảm, đạo đức... của tôn giáo. Do đó, các
ông rất ít đề cập đến vai trò tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. Đây
là một trong những vấn đề đòi hỏi các đảng cộng sản và giai cấp công nhân cần
phải tiếp tục vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin đi sâu
tìm hiểu tôn giáo từ nhiều góc độ khác nhau để có cách nhìn khách quan, khoa
học về hiện tượng xã hội này.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong vận dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo vào thực tế. Người không chỉ nhìn tôn giáo
dưới góc độ chính trị, ý thức hệ, mà Người đã phát hiện và chỉ ra những giá trị
văn hóa, đạo đức tích cực của tôn giáo. Nhận thức sâu sắc vai trò của tôn giáo
trong đời sống xã hội, bao hàm cả hai mặt tích cực và mặt tiêu cực, Hồ Chí Minh
luôn tìm cách khai thác, phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn
giáo để phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đồng thời đấu tranh khắc phục
những tiêu cực.
Hồ
Chí Minh đấu tranh với các thế lực lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị.
Bởi Người nhận thức được rất rõ ràng rằng, trong một quốc gia đa tôn giáo, khi
mà nhiệm vụ giải phóng dân tộc đang được đặt lên hàng đầu thì việc tập hợp sức
mạnh của toàn dân không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề sống
còn của cách mạng. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ việc phê phán, đấu tranh một
cách trực diện với giáo lý tôn giáo sẽ không có lợi cho việc đoàn kết toàn dân.
Cách làm của Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh đều đúng trong những hoàn cảnh
lịch sử cụ thể. Điều đó càng thể hiện rõ, Hồ Chí Minh đã rất thấm nhuần quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm đó
vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Tuy
nhiên, trong lịch sử Việt Nam hiện đại, đã từng có một thời kỳ, do siêu hình,
máy móc, chúng ta đã có những ứng xử không phù hợp với tôn giáo, vai trò
tích cực của tôn giáo đã không được phát huy trong đời sống xã hội, hơn thế nữa
còn gây nên nhiều hiểu lầm, tiêu cực trong đồng bào có đạo, làm giảm niềm tin
của đồng bào đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Với tinh thần mạnh dạn đổi mới, khắc phục những hạn chế, sai lầm
trong nhận thức trước đây, Đảng ta, lần đầu tiên trong Nghị quyết 24-NQ/TW của
Bộ Chính ngày 16-10-1990 đã khẳng định: Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn
giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới… Có thể coi đây là
bước đột phá, khởi đầu trong việc đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo của Đảng
ta, bởi luận điểm này là cơ sở lý luận quan trọng để hạn chế các biểu hiện sai
sầm trong nhận thức và ứng xử với tôn giáo, làm cho chính sách của Nhà nước về
tôn giáo ngày càng đúng đắn và được đông đảo đồng bào có đạo đồng tình, ủng hộ.
Đó là sự trở lại với quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã bổ sung thêm những nghiên cứu về vai
trò của tôn giáo mà trước đây các nhà kinh điển Mác - Lênin chưa có điều kiện
đi sâu tìm hiểu.
Qua
các kỳ Đại hội VII, VIII, IX , X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, tinh thần
đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo vẫn liên tục được phát triển và hoàn thiện
thêm.
Khi thừa nhận tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng xã hội còn tồn
tại lâu dài, Đảng ta ý thức được rằng, tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Tôn giáo vẫn phát huy ảnh hưởng của nó trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Trong trường hợp này, thái độ đúng đắn nhất, biện chứng nhất là khuyến khích
phát huy các yếu tố tích cực của tôn giáo, làm cho các yếu tố này thực sự có ý
nghĩa khi tham gia vào quá trình phát triển, hoàn thiện con người và xã hội
Việt Nam hiện đại. Do vậy, cũng trên tinh thần đổi mới nhận thức về vấn đề tôn
giáo, Đảng ta không chỉ thừa nhận những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp trong
các tôn giáo mà còn luôn khuyến khích phát huy những giá trị đó trong việc xây
dựng xã hội mới. Chỉ thị 37/CT-TWcủa Bộ Chính trị ngày 2-7-1998 về công tác tôn
giáo trong tình hình mới đã khẳng định “Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi
dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ
được đảm bảo. Những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng
và khuyến khích phát huy”(7).
Nhận
thức đúng vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội và những đóng góp của nó
cho nền văn hóa, đạo đức của dân tộc, Đảng ta, trong Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII, về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã chủ trương “Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong
tôn giáo”(8). Chủ trương này tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm qua các kỳ Đại hội IX, X, XI. Đại hội
XI khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng
những giá trị đạo đức, văn hoá tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc,
tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(9).
Tuy
nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rõ, bên cạnh vai trò tích cực, tôn giáo còn chứa
đựng và tiềm ẩn trong nó nhiều mặt tiêu cực có thể gây nên những tác động xấu
đối với đời sống chính trị, xã hội, đó là vấn đề mê tín, dị đoan được đan xen,
dung dưỡng trong sinh hoạt tôn giáo và đặc biệt là vấn đề lợi dụng tôn giáo vào
mục đích chính trị... Vì vậy, bên cạnh việc thừa nhận và khuyến khích phát huy
các giá trị văn hóa, đạo đức tích cực trong tôn giáo, Đảng ta cũng kiên quyết
đấu tranh “tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan; chống việc lợi
dụng tôn giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu”(10).
Hội
nghị Trung ương 7 khóa IX khẳng định: “Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi
hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được
lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép
buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và
các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp
luật”(11). Đại hội XI tiếp tục khẳng định chủ trương: “Tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm với mọi hành động vi
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân”(12).
Như
vậy, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin và dựa trên đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Đảng
ta đã nhìn nhận vấn đề tôn giáo với tư duy mới và nhờ đó đã đưa lại những cách
làm mới trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Điều đó chứng tỏ nhận
thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo có sự vận động, phát triển rõ nét, đồng
thời nó cũng chứng tỏ bản lĩnh và sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta. Sự đổi
mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo nói chung, về vai trò của tôn giáo
nói riêng hoàn toàn không xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Hơn nữa, sự đổi mới nhận thức này
còn là sự tiếp tục những công việc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đương thời đã
từng trăn trở, đó là cần phải bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác và củng
cố chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông.
Từ
nhận thức đúng đắn về nhu cầu tôn giáo của quần chúng, về vai trò của tôn giáo,
tín ngưỡng trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên chăm lo
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tín
ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo. Đảng, Nhà nước cũng luôn quan tâm, tạo
điều kiện thuận lợi để đồng bào các tôn giáo phát huy giá trị nhân văn, nhân
bản của tôn giáo trong xây dựng cuộc sống; động viên đồng bào các tôn giáo sống
“tốt đời, đẹp đạo”; đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện vi
phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn
giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự nghiệp cách mạng
của dân tộc.
Thực
tế cho thấy, khi vai trò tích cực của tôn giáo được thừa nhận và khuyến khích
phát huy đã đem lại những hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội. Chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã được đông đảo
nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo được niềm tin, sự phấn khởi lớn trong đồng bào
có đạo. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được tăng cường, củng cố vững
chắc hơn. Đồng bào có đạo trên khắp các vùng miền cả nước đã và đang tích cực
hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước, sống tốt đời, đẹp đạo, hăng hái tham gia
vào các phong trào phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng quê hương,
đất nước. Nhiều gia đình tín đồ tôn giáo từ nghèo đói triền miên đã vươn lên
thoát nghèo. Nhiều vùng đồng bào có đạo từ nghèo đói đã trở nên giàu có và
trở thành điển hình của cả nước. Hàng chục vạn gia đình tín đồ, hàng ngàn
làng, xã, khu dân cư của đồng bào có đạo được công nhận là gia đình văn hóa,
làng xã văn hóa, khu dân cư an toàn.
Những
năm qua, đồng bào các tôn giáo cũng có những đóng góp rất tích cực vào các hoạt
động xã hội. Rất nhiều phòng khám chữa bệnh, cơ sở nuôi dưỡng người già, trẻ
em, người khuyết tật của các tôn giáo đã và đang góp phần chia sẻ những khó
khăn với Nhà nước trong công tác an sinh... là những minh chứng rõ nhất cho
thấy các tôn giáo ở Việt Nam đã và đang phát huy vai trò tích cực của mình
trong đời sống xã hội.
Tuy
nhiên, trong bối cảnh mới, tôn giáo vẫn còn những vấn đề nảy sinh tiêu cực
trong đời sống chính trị - xã hội. Sự phát triển của đạo Tin lành với nhiều vấn
đề phức tạp về chính trị - xã hội trong khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số ở
khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ Phật
giáo với âm mưu phục hồi hoạt động của hệ phái giáo hội Phật giáo Việt Nam
thống nhất; vấn đề lợi dụng tôn giáo gắn với sắc tộc để kích động tư tưởng ly
khai tự trị trong cộng đồng người Mông, người Chăm, người Khmer và trong đồng
bào các dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên; những hoạt động khó quản lý của
các hiện tượng tôn giáo mới, “đạo lạ” ở nhiều địa phương trên cả nước và gần
đây nhất là những điểm nóng của Công giáo liên quan đến vấn đề đất đai, cơ sở
thờ tự… là những dấu hiệu cho thấy, nếu chúng ta không có được những chủ
trương, chính sách đúng đắn, kịp thời thì tôn giáo có thể sẽ có những tác động
rất tiêu cực tới sự ổn định của xã hội. Vì vậy, vận dụng và phát triển sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc hoạch định và thực thi đường lối,
chính sách đối với tôn giáo trong điều kiện mới của dân tộc và thời đại nhằm
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững độc lập dân tộc, đưa đất nước phát
triển theo đúng định hướng là việc làm thực sự có ý nghĩa hiện nay.
________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận
chính trị số 4-2014
(1), (2) C.Mác - Ph.Ăngghen
Toàn tập, t.22, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.663, 663.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.6,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.331.
(4), (5), (6) Sđd, t.12,
tr.170, 170, 169.
(7) Chỉ thị 37/CT-TW ngày
2-7-1998, về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
(8), (10) ĐCSVN: Văn kiện Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998, tr.67, 67.
(9), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.51, 81.
(11) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị
lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003, tr.50-51.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét