Kinh tế chính trị Marx-Lenin hay kinh tế chính trị học Marx-Lenin là một lý thuyết kinh tế và là môn khoa học về kinh tế chính trị do Marx, Engels và sau này là Lenin phát triển trong giai đoạn mới, có đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Qua đó vạch rõ bản chất, hiện tượng của các quá trình kinh tế để có cơ sở giải quyết các mối quan hệ liên quan đến học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lenin. Cốt lõi của kinh tế chính trị Mác - Lenin là học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác
- Lenin là quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng nhằm tìm ra bản chất của các hiện tượng và
quá trình kinh tế, phát hiện ra các phạm trù, quy luật kinh tế ở các giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội loài người.
Về chức năng của kinh tế chính trị Mác-Lê
nin, mục đích của Marx và Ăng-ghen khi nghiên cứu, sáng tạo ra
kinh tế chính trị này nhằm các mục đích sau (đây cũng là chức năng của kinh tế
chính trị học Marx - Lenin).
- Chức năng nhận thức: Chức năng này thể hiện ở chỗ kinh tế chính trị Mác - Lênin cần phải phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình
kinh tế của đời sống xã hội, tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của
chúng, giúp con người vận dụng các quy luật kinh tế một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt hiệu quả kinh
tế, xã hội cao.
- Chức năng thực tiễn: Là chức năng nhận thức để phục vụ cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Chức năng thực tiễn có quan hệ với chức năng nhận thức, ở chỗ từ việc nghiên
cứu các hiện tượng và các quá trình kinh tế của đời sống xã hội, phát hiện ra
bản chất, các quy luật chi phối và cơ chế hoạt động của các quy luật từ đó kinh
tế chính trị cung cấp những luận cứ khoa học để hoạch định đường lối, chính
sách và biện pháp kinh tế. Đường lối, chính sách và các biện pháp kinh tế dựa
trên những luận cứ khoa học đúng đắn đã nhận thức được sẽ đi vào cuộc sống làm
cho hoạt động kinh tế có hiệu quả cao hơn nhiều.
- Chức năng phương pháp luận: Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các khoa học kinh
tế. Những kết luận của kinh tế chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật
kinh tế có tính chất chung là cơ sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành và
các môn kinh tế chức năng, nó là cơ sở lý luận cho một số môn khoa học khác.
- Chức năng tư tưởng: Kinh tế chính trị Mác - Lenin là cơ sở khoa học cho sự hình thành thế
giới quan, nhân sinh quan và tuyên truyền cho đấu tranh giai cấp của tầng lấp công nhân và nhân dân lao động để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
2. Tiếp thu và kế thừa
Để xây dựng nên một lý thuyết kinh tế chính trị đặc trưng cho chủ nghĩa Mác, Các Mác và Ăng ghen đã nghiên cứu, kế thừa nhiều lý thuyết về kinh tế học
trước đó như các trường phái chủ nghĩa trọng nông (đề cao nông nghiệp), chủ nghĩa trọng thương (đề cao vấn đề thương mại, mua bán, trao đổi...) và chịu ảnh hưởng
của kinh tế học cổ điển Anh với các đại biểu như Adam Smith, David Ricardo hay William Petty.
Trên cơ sở đó, Mác và Engels đã làm cuộc cách mạng sâu sắc trong kinh tế chính trị trên tất cả các phương diện về đối tượng và phương pháp nghiên cứu,
nội dung, tính chất giai cấp... của kinh tế chính trị. Kinh tế chính trị Mác Lenin là sự thống nhất
giữa tính khoa học và tính cách mạng, dựa vào phép biện chứng duy vật và đứng
trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế của xã hội tư bản. Họ
đã thực hiện cuộc cách mạng vĩ đại trong kinh tế chính trị học. Kinh tế chính
trị Mác - Lenin là lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Kinh tế chính trị của Mác và Ăng-ghen xây dựng có khác so với các lý thuyết
trước đó ở chỗ các học thuyết, lý thuyết trước Mác và Ăng-ghen chủ yếu tập
trung nghiên cứu sâu về vấn đề kinh tế, các quan hệ kinh tế đơn thuần và tập
trung cho mục đích kinh tế và hoạt động kinh tế, hay hiệu quả kinh tế, các
phương pháp kinh doanh... trong khi đó lý thuyết của Mác và Ăng-ghen thì gắn
chặt kinh tế với chính trị dùng kinh tế để giải thích chính trị, vạch ra các
bản chất của chính trị-xã hội (theo tư duy của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử).
“Tư bản” cuốn sách chứa đựng nội dung của kinh tế chính trị Mác - Lê
nin
3. Một số nội dung cơ bản
Kinh tế chính trị Mác-Lê nin tập trung nghiên cứu, mổ xẻ các quan hệ kinh
tế trong lòng xã hội tư bản và nghiên cứu sâu về các quy luật của nền sản xuất
này, cụ thể là:
- Đề cập về hàng hóa, sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất
hàng hóa (trong chủ nghĩa Tư bản).
- Tập trung mổ xẻ quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản mà cốt lõi là
việc sản xuất giá trị thặng dư.
- Phân tích sự vận động của tư bản cá biệt và tái sản xuất tư bản xã hội.
- Xem xét các hình thái tư bản
và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.
- Nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước (phần này do Lênin có công
đóng góp rất lớn).
Từ những nội dung cơ bản mà Mác
và Ăng-ghen đã xây dựng nên một hệ thống những phạm trù có liên quan một cách đồ sộ như: Tái sản xuất xã hội, phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất, tư bản lưu động, tư bản cố định, tư bản bất biến, tư bản khả biến, giá trị, giá trị sử dụng, hàng hóa
sức lao động, sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động, tư liệu sản xuất...
4. Một số phát hiện quan trọng
Các Marx và Ăng ghen đã đầu tư công sức tập trung nghiên cứu các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa Tư bản và có những phát hiện quan trọng làm nền tảng cho
lý luận khoa học của hai ông.
4.1. Mâu thuẫn giữa
hai thuộc tính của hàng hóa
Mâu thuẫn giữa thuộc tính giá trị và giá trị sử dung của hàng hóa là hàng
hóa không đồng nhất về chất nhưng lại đồng nhất về chất. Giá trị và giá trị sử dụng
cùng tồn tại trong bản thân hàng khóa nhưng lại tách rời về mặt không gian và
thời gian. Cụ thể là:
- Nếu xét ở góc độ là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về
chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về
chất, đều là sự kết tinh của lao động tức đều là sự kết tinh của lao động, hay
là lao động đã được vật hoá.
- Tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá
trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt không gian và thời gian: Giá
trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau trong
lĩnh vực tiêu dùng.
Và từ phát hiện này, Các Mác tiếp tục có phát hiện quan trọng thứ hai có
liên quan.
4.2. Tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt một mặt nó vừa
mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể) mặt khác nó lại vừa mang tính chất trừu
tượng (lao động trừu tượng). Và chính cái mà người công nhân, người lao động bị
bóc lột là cái lao động trừu tượng của họ chứ không phải là lao động cụ thể,
những việc làm cụ thể, thời gian cụ thể và chính vì tính trừu tượng như vậy nên
khó nhận ra sự bóc lột, đặc biệt là sự bóc lột tinh vi.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân
và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa
4.3. Công thức chung
của tư bản
Theo Các Mác thì tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công
thức: H - T - H (Hàng - Tiền - Hàng) còn tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì theo công thức: T - H - T’ (Tiền - Hàng -
Tiền').
Ông đã so sánh hai công thức này và phá hiện điểm khác cơ bản là lưu thông
hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H - T tức là Hàng -
Tiền) và kết thúc bằng hành vi mua (T - H tức là Tiền - Hàng),
ngoài ra điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng.
Trong khi đó, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T - H tức
Tiền - Hàng) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T’ tức Hàng -
Tiền'), ở sơ đồ này, tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng
hóa chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị, và
giá trị lớn hơn.
Như vậy thì tư bản phải vận động theo công thức T-H-T’ để
có giá trị mới. T' (tức là Tiền sau một vòng lưu thông sẽ được tính bằng công
thức: T’ = T + ΔT, trong đó: ΔT là số tiền trội hơn (giá trị lớn hơn)
được gọi là giá trị thặng dư (Các Mác ký hiệu nó bằng m). Còn
số tiền ứng ra ban đầu (Tiền ban đầu dùng để mua hàng ở đầu
chu trình lưu thông này) với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư
bản và tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư
cho nhà tư bản.
Tóm lại, công thức chung của chủ nghĩa tư bản là:
T – H – T’ với T’ = T + m
4.4. Mâu thuẫn trong
công thức chung
Các Mác cũng đã phát hiện được mâu thuẫn trong công thức chung này đó là
giá trị thặng dư vừa không được sinh ra trong quá trình lưu thông nhưng lại
được sinh ra trong quá trình lưu thông.
Cụ thể, trong công thức chung của chủ nghĩa tư bản chỉ có 2 nhân tố là Hàng
(H) và Tiền (T) và quá trình lưu thông thì cũng là sự sắp xếp theo trật tự khác
nhau của 2 nhân tố này và không có một sự tác động nào bên ngoài hay có một
tham số khác trong công thức này nhưng vẫn phát sinh ra nhân tố mới là T' tức
là số tiền trội hơn (ΔT) hay giá trị thặng dư (m).
Nếu xét đơn thuần bề ngoài thì giá trị thặng dư có vẻ được sinh ra trong
lưu thông vì phát sinh không ngoài công thức này (với hai đại lượng cơ bản là
Hàng và Tiền). Tuy nhiên, nếu mua - bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình
thái của giá trị từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá
trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa
có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực của nói nhưng cũng chưa thể kết
luận là có giá trị mới vì trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều
vừa là người bán, vừa là người mua (tính chung tổng thể). Cái lợi mà họ thu
được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có
những kẻ chuyên mua rẻ, mua may, bán đắt hay lừa lọc, ép giá, nói thách, nói
xạo để được lợi thì chính bản thân người thực hiện hành vi đó được lợi nhưng
tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những
người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người
khác. Điều này cũng tương tự như việc lưu thông tiền tệ trong sòng bài, chiếu
bạc có người thắng, người thua nhưng quan trọng là người thắng thì lấy tiền từ
kẻ thua (tiền chuyển từ tay người này qua tay người kia) chứ không sinh lợi
thêm như nhiều người vẫn vọng tưởng.
Như vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá
trị hay giá trị mới. Nhưng mặt khác, nếu người có tiền không tiếp xúc gì với
lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông (ví dụ như đem chôn, cất, dấu, tích trữ,
tàng trữ, không đầu tư gì cả...) thì cũng không thể làm cho tiền của mình tăng
thêm lên được (sẽ không có hiện tượng lãi mẹ đẻ lãi con).
Từ phân tích này Các Mác kết luận:
“Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện
ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không
phải trong lưu thông” - Các Mác.[1]
Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính Các Mác là người đầu
tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng một phát hiện tiếp theo đó
là hàng hóa sức lao động.
5. Hàng hóa sức
lao động
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản thì hướng giải quyết
là cần tìm trên thị trường một loại hàng hóa mà việc sử dụng nó có thể
tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, loại hàng hóa đặc biệt
này chính là hàng hóa sức lao động. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo
ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra
so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đây được coi là đặc điểm riêng
có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động và đặc điểm này là chìa khoá
để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
Sức lao động theo kinh tế chính trị Mác Lê nin là toàn bộ những năng lực
(thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào
sản xuất, nó là cái có trước, còn lao động là cái có sau và chính là quá trình
sử dụng sức lao động.
Theo chủ nghĩa Mác Lê nin thì rong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của
sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
- Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động
của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
- Người lao động không có tư
liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống chỉ
còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Thông qua hàng hóa sức lao động này mà tạo ra sự
chuyển hóa trong lưu thông, tạo ra giá trị mới, theo đó công thức T - H - T' có
thể được hiểu là: T là tư bản, là số tiền đầu tư ban đầu, trong đó một phần sẽ
đầu tư vào để mua máy móc, nhà xưởng, một phần mua nguyên liệu và một phần thuê
nhân công, H chính là hàng hóa sức lao động, thông qua sức lao động của con
người sẽ tác động vào máy móc, vật liệu để tạo nên những H (hàng hóa) có giá
trị cao hơn so với giá trị ban đầu và nhà tư bản chỉ việc chiếm đoạt H này và
bản để thu về T' (giá trị mới cao hơn và đã bao hàm trong đó là giá trị thặng
dư). Và cụ thể việc sử dụng hàng hóa sức lao động này như thế nào để phát sinh
giá trị thặng dư thì Các Mác tiếp tục có phát hiện tiếp theo là bóc trần quy
trình sản xuất giá trị thặng dư.
6. Sản xuất giá
trị thặng dư
Nhà tư bản sẽ ứng trước ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động
là để tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình tạo ra giá trị thặng dư được Các Mác
phân tích rất kỹ lưỡng qua bài toán kéo sợi giả dụ của ông ta.
Để chế tạo ra 01 kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền gồm:
- 20.000 đơn vị tiền tệ để mua 1 kg bông.
- 3.000 đơn vị tiền tệ cho hao phí máy móc.
- 5.000 đơn vị tiền tệ để mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc
trong 01 ngày (10 giờ).
- Tổng cộng: 28.000 đơn vị tiền tệ.
Giả định việc mua này đúng giá trị và mỗi giờ lao động của công nhân tạo ra
giá trị mới kết tinh vào sản phẩm là 1.000 đơn vị.
Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể, công nhân sử
dụng máy móc để chuyển 1 kg bông thành 1 kg sợi, theo đó giá trị của
bông và hao mòn máy móc cũng được chuyển vào sợi. Tỷ dụ chỉ trong 5 giờ công
nhân đã kéo xong 1 kg bông thành 1 kg sợi, thì giá trị 1 kg sợi
được tính theo các khoản chi phí như sau:
- Giá trị 1 kg bông chuyển vào = 20.000 đơn vị.
- Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị.
- Giá trị mới tạo ra: 5 giờ X 1.000 đơn vị = 5.000 đơn vị.
- Tổng cộng =
28.000 đơn vị tiền tệ.
Nếu quá trình lao động ngừng ở
đây thì nhà tư bản chưa có được giá trị thặng dư vì nếu bán hàng hóa đi thì chi
phí này bằng với chi phí ban đầu đã bỏ ra và chỉ huề vốn.
Thời gian lao động (5 giờ) mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị
ngang với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động tất
yếu tương tự, lao động trong khoảng thời gian ấy gọi là lao
động tất yếu.
Tuy nhiên, nhà tư bản đã mua sức lao động trong 1 ngày với 10 giờ, chứ
không phải 5 giờ. Như vậy, trong 5 giờ lao động tiếp theo, nhà tư bản chỉ
phải chi thêm 20.000 đơn vị để mua 1 kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy móc mà
không phải chi thêm tiền công mướn lao động nữa. Và với 5 giờ lao động sau,
người công nhân vẫn tạo ra 5.000 đơn vị giá trị mới (mà không được chi thêm
đồng nào theo đợt thứ 2 này) và nhà tư bản lại có thêm 1 kg sợi bán đi với
giá trị 28.000 đơn vị.
Và bảng giá tính tiền vẫn giống như ban đầu gồm chi phí nguyên liệu: 20.000
đơn vị, hao mòn máy móc: 3.000 đơn vị, giá trị mới: 5.000 đơn vị, tổng số:
28.000 đơn vị. Nhưng khác với bảng giá lần 1, chi phí đầu vào lần 2 này không
có khoản 5.000 đơn vị để mua sức lao động.
Tổng cộng số tiền nhà tư bản chi ra để có được 2 kg
sợi sẽ là:
- Tiền mua bông: 20.000 x 2 lần sản xuất = 40.000 đơn vị.
- Hao mòn máy móc (máy chạy 10
tiếng): 3.000 x 2 lần sản xuất = 6.000 đơn vị.
- Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 10 giờ, tính theo đúng giá trị
sức lao động) = 5.000 đơn vị.
- Tổng cộng =
51.000 đơn vị.
Tổng giá trị của thu được của
2 kg sợi là: 2 kg x 28.000/kg = 56.000 đơn vị.
Như vậy, lượng giá trị thặng dư (dôi ra) thu được là: 56.000 (bán được) -
51.000 (chi phí) = 5.000 đơn vị (5.000 dư này là do chiếm đoạt lao động không
công của công nhân mà có).
Thời gian lao động (5 giờ) để tạo ra giá trị thặng dư gọi là thời gian lao
động thặng dư, và lao động trong thời gian ấy gọi là lao động thặng dư và Giá
trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Nhà tư bản chi phối
được số lao động không công ấy vì nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất.
“Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi
phối được một số lượng lao động không công nhất định của người khác” -Các Mác.[2]
7. Bản chất của
tiền công
Từ ví dụ trên và qua phân tích giá trị thặng dư, Các Mác đã phát hiện tiền
công chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả
của hàng hóa sức lao động và không nên nhầm tiền công là giá cả của lao động.
cho dù nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để
sản xuất ra hàng hóa hay tiền công được trả theo thời gian lao động (giờ, ngày,
tuần, tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được. Ở đây, cái mà nhà
tư bản mua của công nhân không phải là lao động, mà là sức lao động (bỏ tiền để mướn sức của công nhân) cho nên tiền công không phải là
giá trị hay giá cả của lao động (lao động đến đâu trả tiền đến đó), mà chỉ là
giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động (tức nhà tư bản đã mua loại hàng
hóa này để tùy nghi sử dụng sao cho có lợi nhất).
Tham khảo:
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006.
2. Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006.
3. Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ
môn khoa học Mác -
Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004.
4. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006.
5. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006.
6. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác - Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung ương chỉ đạo
biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005.
7. Giáo trình lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tái bản có sửa đổi, bổ sung), Hội đồng Trung ương
chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2003.
8. Nhập môn Marx, Rius (Eduardo del Rio), người dịch: Nguyễn Hà, hiệu đính: Bùi Văn Nam Sơn,
Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006.
9. Một số vấn đề Triết học Mác - Lenin: Lý luận và thực tiễn (tái bản có bổ sung), Lê Doãn Tá, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2003.
10. Triết học Mác - Lenin (tập II), Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1994 (xuất bản
lần thứ ba).
11. Triết học Mác - Lenin (tập III), Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1994 (xuất bản
lần thứ ba).
12. Triết học Mác - Lenin (tập II), Vụ Công tác Chính trị - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 1996.
13. Kinh tế Chính trị Mác - Lenin (in lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Vũ Anh Tuấn, Phạm Quang Phân,
Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp, thành phố
Hồ Chí Minh, năm 2007.
14. 100 câu hỏi và bài tập kinh tế chính trị Mác - Lenin (tái bản lần thứ 5), An Như Hải, Nhà xuất bản Lý luận chính
trị, Hà Nội, năm 2008.
15. Chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Chủ
biên: Lê Thế Lạng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004 (tái bản
có bổ sung, sửa chữa).
Chú thích:
1. C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 1993, tập 23, trang 249.
2. C.Mác và Ph.
ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 1993, tập 23, trang 753
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguồn: https://vi.wikipedia.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét