Vũ
Văn Hà
TCCSĐT - Trong
nền kinh tế thế giới tồn tại các mô hình kinh tế thị trường: kinh tế thị trường
tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Và trong mỗi quốc
gia lại có những biến thể khác nhau xuất phát từ quan niệm, trình độ phát triển
kinh tế - văn hóa - xã hội. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới, và từ
thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận,
một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta.
Ảnh minh họa - Nguồn: tuyengiao.vn
1. Trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB), C. Mác đã dự
báo về xã hội tương lai trên những nét đại thể. C. Mác cho rằng, với sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội, dẫn đến phá vỡ trật tự, kết cấu của
quan hệ sản xuất tư bản, mở đường, xác lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp với
trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất để thúc đẩy một phương thức sản
xuất mới ra đời.
C. Mác không
chỉ dự báo chủ nghĩa xã hội ra đời từ xã hội tư bản đã phát triển cao, mà C.
Mác cũng đã nói đến kiểu phát triển “rút ngắn” lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) qua
trường hợp nước Nga. Theo C. Mác, khi vừa thoát thai từ xã hội tư bản, xã hội cộng
sản không thể bước ngay vào giai đoạn cao, tức giai đoạn xã hội cộng sản “đã
phát triển trên cơ sở của chính nó”. Nó phải trải qua giai đoạn đầu hay giai đoạn
thấp của xã hội cộng sản, mà “về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần
- còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó lọt lòng ra”(1). Xã hội
cộng sản với tính cách chỉnh thể thì không có sẵn trong lòng xã hội tư bản,
song những tiền đề, mầm mống, yếu tố, thì đã nảy sinh trong lòng xã hội tư bản.
Như vậy những mầm mống, yếu tố của CNXH, nảy sinh trong lòng xã hội tư bản trên cơ sở phát triển kinh tế thị trường. Chính C. Mác cũng đã chỉ ra vai trò quan trọng của sản xuất hàng hóa đối với sự phát triển của xã hội. Ông viết: “Trong những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối thì của cải xã hội biểu hiện ra là một đống hàng hóa khổng lồ, những hàng hóa chồng chất lại”(2).
C. Mác khi dự
báo về sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa ở giai đoạn
cao, lúc đó nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường)
cũng không còn tồn tại. “Nhà nước sẽ có thể tiêu vong hoàn toàn khi xã hội đã
thực hiện được nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nghĩa là khi
người ta đã rất quen tôn trọng những quy tắc cơ bản của đời sống chung trong xã
hội, và năng xuất lao động của người ta đã lên cao đến mức người ta sẽ tự nguyện
làm hết năng lực”(3) và “Cơ sở kinh tế làm cho nhà nước tiêu vong
hoàn toàn là chủ nghĩa cộng sản đạt tới một trình độ phát triển cao khiến mọi sự
đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay không còn nữa, và do đó, cũng
không còn một trong những nguồn gốc chủ yếu của sự bất bình đẳng xã hội hiện
nay” (4). Như vậy, nhà nước và kinh tế thị trường trước khi không
còn cơ sở tồn tại, thì bản thân chúng lại cần thiết cho quá trình xây dựng
thành công một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Logic này được
V.I.Lê-nin khẳng định từ chính thực tiễn phát triển của nước Nga. Chúng ta biết,
khi Cách mạng Tháng Mười thành công, ngay bản thân V.I.Lê-nin, trong giai đoạn
đầu ông cũng triển khai chính sách cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, sau đó Người
nhận ra sai lầm, nóng vội, và chỉ ra chính sách cộng sản thời chiến trước đây
được rất nhiều người trong Đảng hiểu như là một chính sách cần phải được tiếp tục
trong chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì thực tế
đã cho thấy, sau chiến tranh, không thể tiếp tục con đường đó, bởi nó đối lập Đảng
với quần chúng nhân dân, công nhân với nông dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền
kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước. Và người chỉ ra con đường khắc phục
thông qua triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới. Thực chất của chính sách
kinh tế mới là chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang khuyến khích phát triển
kinh tế hàng hóa, chấp nhận mức độ nhất định cơ chế thị trường. Để phát triển lực
lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành còn nhiều khó khăn, cần phải duy
trì nền kinh tế nhiều thành phần. Trong khi vận dụng chính sách kinh tế mới,
V.I.Lênin đã dùng từ “quá độ” để chỉ rõ trong nền kinh tế của nước Nga khi đó
“có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội” (5). Và V.I.Lê-nin còn khẳng định rằng: “Chúng ta
không thể hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa
trên tất cả nhũng bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”
(6). Rất tiếc rằng, mấy năm sau khi V.I.Lênin qua đời, chính sách
kinh tế mới đã sớm bị dừng lại, không được tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
2. Sau đại thắng
mùa xuân 1975, đất nước ta bắt đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hoà bình, thống
nhất, độc lập và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên do chủ quan, nóng vội,
trong kế hoạch kinh tế - xã hội 1976 - 1980 đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về
quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất; đã duy trì
quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm đổi mới các chính
sách, chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với
những thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu cơ sở. Bên
cạnh đó tình hình quốc tế hết sức phức tạp đã tác động lớn đến sự phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy nền kinh tế đến khủng hoảng.
Trong thực tiễn
xuất hiện các mô hình mới, vượt qua khuôn khổ của hoạt động kinh tế theo mô
hình kế hoạch hóa tập trung, như khoán hộ ở Đồ Sơn (Hải Phòng) và ở Vĩnh Phúc.
Chủ động nắm bắt và khái quát thành chủ trương, Đảng ta đã ban hành Chỉ thị 100
năm 1981 và Nghị quyết số 10 năm 1988 làm thay đổi căn bản kinh tế nông nghiệp
của Việt Nam.
Đại hội VI đã
đề ra đường lối đổi mới, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra
động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động tích cực phát triển
sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Kiên quyết xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế
hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa (XHCN), đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế mới lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, sử dụng
đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu
kết hợp với biện pháp hành chính, giáo dục, thực hiện phân cấp quản lý theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động
kinh tế.
Như vậy, trong
giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng mới nêu ra quan điểm phát triển nền
kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, chưa đề cập đến
cơ chế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, đây là dấu mốc
quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và
phương pháp xây dựng CNXH ở nước ta.
Tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định thực hiện nhất quán chính
sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Đồng thời, Nghị quyết đã
đưa ra quan điểm mới, mang tính chất bước ngoặt về kinh tế quốc doanh, tạo cơ sở
quan trọng cho việc đẩy mạnh sắp xếp lại khu vực kinh tế này. Cụ thể, kinh tế
quốc doanh phải được củng cố và phát triển, nắm vững vị trí then chốt trong nền
kinh tế, có lực lượng đủ sức chi phối thị trường để thực hiện tốt vai trò chủ đạo,
bảo đảm cho sự phát triển ổn định và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân theo định hướng XHCN, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi
ngành, nghề. Đáng chú ý, tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng khẳng định rằng,
trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thị trường xã hội là một thể thống
nhất, thông suốt trong cả nước và gắn với thị trường thế giới với nhiều lực lượng
khác nhau tham gia lưu thông hàng hoá, đồng thời đề cập đến cơ chế thị trường. Mặc
dù chưa được đề cập trực tiếp với tư cách là cơ chế quản lý nền kinh tế, song Đảng
cũng chỉ rõ, cơ chế thị trường phải được vận dụng nhất quán trong kế hoạch hóa
và các chính sách kinh tế.
Đến Đại hội
VII (6-1991), Văn kiện đã nêu rõ cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ
khác. Trong cơ chế đó, các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền
tự chủ sản xuất, kinh doanh; hợp tác, liên doanh tự nguyện, bình đẳng, cạnh
tranh hợp pháp. Bên cạnh đó, Đảng cũng chỉ rõ, phải xây dựng và phát triển đồng
bộ các thị trường, xóa bỏ độc quyền và đặc quyền ở hầu hết các ngành và lĩnh vực
kinh tế. Như vậy, đây là lần đầu tiên Đảng đề cập đến cơ chế thị trường với
tư cách là cơ chế vận hành nền kinh tế. Có thể xem đây là một bước tiến lớn
trong nhận thức, trong tư duy về thị trường, cơ chế thị trường của Đảng ta.
Đến Đại hội
VIII (6-1996), trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới (1986 - 1996), Đảng đã rút ra
một số kết luận mới về mối quan hệ giữa sản xuất hàng hóa và chủ nghĩa xã hội,
giữa kế hoạch hóa và thị trường, giữa thị trường trong nước và quốc tế, giữa
quyền quản lý của Nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, về phân
phối và lấy đó làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục
tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, tiếp tục tạo lập đồng bộ cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong đó đáng
chú ý Đảng ta đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng về kinh tế hàng hóa và CNXH:
“Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển
của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” (7).
Tại Đại hội IX
(4-2001), khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN mới được chính thức sử dụng
trong các văn kiện của Đảng. Và cũng từ Đại hội này, Đảng xác định nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời
kỳ quá độ đi lên CNXH, đồng thời làm rõ một số khía cạnh liên quan đến nội hàm
của mô hình kinh tế này (8).
Đại hội XII đã
xác định rõ: Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế
thị trường.
Điều kiện cơ bản
để huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển là bảo đảm tự do
kinh doanh và thúc đẩy cạnh tranh; thiết lập và hoàn thiện cơ chế thị trường
lành mạnh, minh bạch; phát triển đầy đủ, đồng bộ và vận hành thông suốt các loại
thị trường; các chủ thể thị trường cạnh tranh bình đẳng; đặc biệt cần có sự
bình đẳng trong cơ hội đầu tư, sản xuất và kinh doanh đối với mọi chủ thể kinh
tế, không phân biệt đối xử với cá nhân hay tập thể, doanh nghiệp tư nhân hay
doanh nghiệp nhà nước.
Thị trường
cũng chính là cơ chế chủ yếu thực hiện phân phối các thành quả của tăng trưởng
kinh tế, trong đó thu nhập của mỗi người được hình thành trên cơ sở và phù hợp
với kết quả lao động cũng như mức đóng góp về các nguồn lực trong quá trình tạo
ra của cải xã hội. Đây là những tiền đề quan trọng để mọi chủ thể xã hội phát
huy năng lực và sức sáng tạo, làm giàu cho chính mình và làm giàu cho xã hội.
3. Như vậy bản
thân vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn nước ta là quá trình chuyển
biến hết sức sâu sắc, mang tính cách mạng. Việc vận dụng một cách độc lập, tự
chủ và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN của Đảng ta có thể khái quát chung ở mấy điểm như sau:
Thứ nhất, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước trong quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng
của các nhà kinh điển về một xã hội tương lai, Đảng ta đã thực hiện đổi mới,
sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng
định nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Có thể nói đây là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, độc
lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới. Quá trình đổi
mới nhận thức này diễn ra từng bước và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn phát triển
của nền kinh tế và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với thực tiễn phát
triển của nền kinh tế nước nhà. Quá trình đổi mới không theo liệu pháp sốc như
một số quốc gia, mà nó là quá trình thích ứng, tạo cơ chế cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất và kiện toàn quan hệ sản xuất cho thích ứng với mỗi giai đoạn,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sau sự kiện sụp đổ của mô hình chủ
nghĩa xã hội kiểu cũ, nhiều quốc gia thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế, song
Việt Nam căn cứ vào thực tế phát triển của mình, đã hoàn toàn tự chủ, độc lập,
sáng tạo trong xác lập mô hình kinh tế mới phù hợp, khai thác được sức mạnh các
nguồn lực tạo sự phát triển ấn tượng trong hơn 30 năm qua, đưa Việt Nam từ quốc
gia thiếu đói trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về nhiều mặt hàng quan
trọng và có thu nhập đạt mức trên 2.500 USD/người (năm 2018).
Thứ hai, cùng với quá trình, bước đi đổi mới hợp lý, đó là sự
độc lập, sáng tạo, có sơ sở khoa học trong xác định mô hình kinh tế mới - mô
hình kinh thế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế
thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kinh tế thị
trường định hướng XHCN có những điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác
biệt về bản chất so với kinh tế thị trường tư bản hiện đại. Điểm tương đồng với
kinh tế thị trường tư bản hiện đại như: Dựa trên nền tảng của chế độ phân chia
sở hữu và đa sở hữu; Vận hành của nền kinh tế chủ yếu thông qua và bằng cơ chế
thị trường; Có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước; Thực hiện các hình thức phân
phối đa dạng. Và đương nhiên cũng khác với kinh tế thị trường XHCN mà Trung Quốc
thực hiện. Trung Quốc đã kết thúc thời kỳ quá độ, và nền kinh tế thị trường của
họ hiện nay được họ gọi là nền kinh tế thị trường XHCN.
Thực hiện mô
hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là sự gán ghép chủ quan giữa
kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách
quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Bản thân kinh tế thị trường
cho đến nay được xem là phương cách hiệu quả nhất trong phân bổ, khai thác các
nguồn lực cho sự phát triển đi lên văn minh hiện đại. Chủ nghĩa xã hội là xã hội
tương lai, một xã hội bảo đảm các điều kiện phát triển toàn diện của con người.
Do vậy, lựa chọn kinh tế thị trường là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật
phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi
sau, cho phép các nước này rút ngắn được con đường đi của mình tới CNXH trên cơ
sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế những khuyết tật của thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa
tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo
đảm tính định hướng XHCN. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết
định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục
tiêu là sử dụng kinh tế thị trường, đồng thời với nâng cao hiệu lực và hiệu quả
điều tiết của Nhà nước XHCN, gắn với việc phát huy các nguồn lực xã hội, vai
trò của xã hội, nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát
triển rút ngắn để sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một dạng mô thức kinh tế mới, chưa từng có trong lịch
sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là
“cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng XHCN là ‘cái đặc thù” của Việt
Nam, tương thích với điều kiện, đặc điểm cụ thể của Việt Nam và phù hợp với xu
thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Nói kinh tế thị trường định hướng
XHCN là muốn nhấn mạnh đích đến CNXH, khác với kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa và tất nhiên cũng chưa phải kinh tế thị trường XHCN như quan niệm của
Trung Quốc. Bởi vì, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa, đã có
nhưng chưa đầy đủ các yếu tố của CNXH. Phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN là hướng tới xây dựng thành công CNXH thông qua sử dụng kinh tế thị trường.
Chủ trương
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tiếp thu có chọn lọc thành
tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường
trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ
thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần
làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Đây là sự lựa chọn tự giác
con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm
bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển mới về
lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Đây là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ
dẫn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc biệt những
chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh tế mới; đồng thời, xuất phát từ tổng kết
thực tiễn phát triển của Việt Nam giai đoạn vừa qua.
Thứ ba, sự sáng tạo trong triển khai kinh tế thị trường định
hướng XHCN, còn là ở chỗ, phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội. Chúng ta biết, trong kinh tế thị trường các chủ thể cạnh
tranh nhau với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Chính vì vậy, đi liền với tăng
trưởng là sự phân hóa giàu nghèo, không ít người yếu thế bị bật ra khỏi vòng
quay của nền kinh tế, cũng vì vậy nảy sinh không ít hiện tượng tiêu cực và các
tệ nạn xã hội. Trong chủ nghĩa tư bản (CNTB), nhân dân lao động là người làm
thuê, mục tiêu của CNTB là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai cấp tư
sản. Để đạt tới mục tiêu đã được xác định, CNTB đã có nhiều chủ trương, giải
pháp về các vấn đề xã hội, trong đó có những mặt tiến bộ như thực hiện giảm nhẹ
sự bất bình đẳng trong xã hội cũng như tìm cách giảm căng thẳng trong xã hội.
Tuy nhiên, những mặt tiến bộ ấy không bền vững vì mâu thuẫn cơ bản của CNTB là
xã hội hóa của sản xuất và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn tồn tại.
Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển kinh tế phải đi liền với việc
giải quyết tốt các vấn đề xã hội. “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật
chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích của
các hoạt động kinh tế” (9) và “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát
triển” (10). Đây là nét sáng tạo của Đảng ta trong vận dụng các tư
tưởng của các nhà kinh điển nhằm hiện thực hóa mục tiêu của xã hội mới trong từng
chặng đường phát triển kinh tế thị trường. Không ít quốc gia trên thế giới
trong thực tiễn phát triển đã có thời kỳ phát triển kinh tế bỏ qua các vấn đề
xã hội và họ đã phải trả giá. Ngay bản thân Trung Quốc, thời kỳ đầu cải cách họ
cũng chưa chú ý đến vấn đề xã hội, và vì vậy phân hóa giàu nghèo gia tăng mạnh
mẽ. Đến Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) họ đã phải chủ trương
từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất
thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
Thứ tư, tự chủ, sáng tạo trong đổi mới phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không chỉ là ở xác định nội dung, bước đi
mà còn ở phương thức thực hiện. Việt Nam thực hiện đổi mới, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN theo phương cách tạo sự phát triển để ổn định xã
hội. Việt Nam là nước nghèo, hạ tầng kém phát triển, đời sống của người dân khó
khăn, do đó rất cần có sự phát triển kinh tế, tạo cơ sở, nguồn lực cho giải quyết
các vấn đề xã hội. Chính vì vậy trong đổi mới, Việt Nam bắt đầu từ đổi mới kinh
tế, sau đó mới thực hiện đổi mới đồng bộ giữa kinh tế với chính trị. Đây cũng là
cách làm chủ động, sáng tạo và hiệu quả của Việt Nam. Khác với chúng ta, Liên
Xô trước đây đã thực hiện quá trình cải cách, đổi mới chính trị, lấy đó làm cơ
sở cho cải cách, đổi mới kinh tế. Và thực tế Liên Xô đã mất cơ sở chính trị cho
quá trình đổi mới, đẩy quá trình đổi mới kinh tế chệch hướng (tư nhân hóa hàng
loạt tài sản quốc gia, mà sau này chính quyền ông Putin phải điều chỉnh). Trung
Quốc thực hiện cải cách theo phương châm ổn định để phát triển. Điều này được
luận giải bởi đặc thù của đất nước Trung Quốc quá rộng lớn, đông dân, cần có sự
ổn định mới có thể tạo sự phát triển./.
(1) C. Mác - Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t 19, tr.33
(2) V.I. Lenin Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2005, t.27, tr.472
(3) V.I.Lenin: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2005, t.33. tr.125
(4) V.I.Lenin: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2005, t.33. tr.118
(5) V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.43, tr.248
(6) V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.36, tr.334
(7) Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nxb
CTQG, H.1996, tr.72
(8) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,
H.2001, tr.86 - 88
(9) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB Sự thật,
H. 1987, tr 86
(10) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb CTQG,
H. 1996, tr 113
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét