LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC
CỦA LÊNIN VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
VI.Lênin – Lãnh tụ
thiên tài của giai cấp vô sản Nga và toàn thế giới (Ảnh Internet) |
(ĐCSVN)- Nhân kỷ niệm 140 năm ngày sinh của VI. Lênin (22.4.1870 –
22.4.2010), chúng ta lại nhớ về kho tàng di sản lý luận mác-xít của Người,
trong đó có lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước (CNTBNN) là một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ hệ thống lý luận về chính sách kinh tế mới (New Economy
Policy - NEP) đã được Lênin đề ra và trực tiếp chỉ đạo vào công cuộc xây dựng
CNXH ở nước Nga Xô viết đầu những năm 20 thế kỷ XX. Lý luận này nhiều năm qua
đã và đang được vận dụng vào thực tiễn nước ta.
Lý
luận về CNTBNN của Lênin và sự vận dụng ở nước Nga Xô viết
Từ
cuối năm 1917, ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chính quyền Xô
viết được thành lập, Lênin – Nhà lãnh đạo cao nhất của Nhà nước đó đã có những
tư tưởng đầu tiên về sử dụng thành phần kinh tế TBCN như là một hình thức kinh
tế đặc thù của thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, khi ấy quan niệm của Người
về việc sử dụng CNTBNN còn ở những nét phác thảo và mang nặng tính chất là một
biện pháp chính trị nhằm củng cố sự độc quyền nhà nước trong lưu thông hàng
hoá, đặc biệt trong việc chống đầu cơ lúa mì của bọn địa chủ, culắc và thương
nhân tư bản bấy giờ. Tiếc rằng, do những diễn biến phức tạp của tình hình nước
Nga Xô viết những năm 1918-1920, đã buộc Nhà nước Xô viết phải thực hiện chính
sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu
hoá ngay những tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc
quyền, đại địa chủ và các thế lực phản động, chống phá cách mạng khác. Những
hành động đó là kịp thời và đúng đắn với tình
hình bấy giờ song cũng vì đó đã làm hạn chế các khả năng sử dụng CNTBNN, điều mà trước đó Lênin đã từng dự liệu.
Tháng
3/1921, sau khi nội chiến kết thúc, tại Đại hội X Đảng Cộng sản (b) Nga với
việc đề ra chính sách kinh tế mới (NEP), Lênin đã chỉ
rõ trong những điều kiện mới này, việc sử dụng những hình thức kinh tế
quá độ của CNTBNN là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Thời kỳ
chính sách cộng sản thời chiến đã kết thúc, giờ đây với việc thực thi NEP thì
CNTBNN là một trong những hình thức rất thích hợp để giúp nước Nga Xô viết
nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh và ngăn chặn
những nảy sinh tự phát của nền sản xuất hàng hoá nhỏ - mầm mống của sự phục hồi
CNTB. Sở dĩ CNTBNN dưới điều kiện chuyên chính vô sản có ý nghĩa quan trọng và
tác dụng to lớn như vậy vì như định nghĩa của Lênin - đó là một thứ CNTB có
liên quan với nhà nước. Nhà nước đó là nhà nước của giai cấp vô sản, là đội
tiền phong của chúng ta. Thông qua
việc sử dụng CNTBNN, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có
chọn lọc tất cả những tài sản vật chất - kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong
kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học -
kỹ thuật và trình độ khoa học quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà
nước vô sản có thể sử dụng CNTBNN như là một hệ thống các chính sách, công cụ,
biện pháp nhằm điều tiết mọi hoạt động của các xí
nghiệp tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử
dụng vừa cải tạo bằng phương pháp hoà bình đối với các thành phần kinh tế TBCN
và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, CNTBNN còn có thể coi là một trong những
phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hoá
và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của CNXH mà kết quả căn bản của sự xã hội
hoá này là thể hiện bởi việc phát triển ngày càng mạnh mẽ một nền sản xuất hàng
hoá quá độ XHCN - giai đoạn trung gian của nền sản xuất hàng hoá XHCN trong
tương lai.
Chúng ta nên nhớ rằng bối cảnh lịch sử nước Nga Xô viết bấy giờ còn rất phức tạp. Không ít những người cộng sản Nga chân chính nhưng do chưa nhận thức đúng vấn đề này đã lo ngại rằng, nếu sử dụng CNTBNN và các hình thức kinh tế quá độ tư sản khác, thì giai cấp tư sản Nga nhất là bọn tư bản sẽ còn có khả năng tái phát triển trở lại. Nguy cơ phục hồi CNTB ở Nga do đó rất dễ xảy ra. Những người cộng sản này càng hoang mang khi thấy những người cộng sản cánh tả đã tuyên truyền luận điểm cho rằng như thế là nước Nga sẽ quay lại thời kỳ CNTB, họ chủ trương là phải tiến lên CNXH một cách trực tiếp, tức là không kinh qua các bước quá độ trung gian và do đó không cần sử dụng CNTBNN, không cần sử dụng các quan hệ hàng hoá - tiền tệ… và do đó, phải xoá bỏ ngay tận gốc giai cấp tư sản. Lênin đã phê phán những luận điểm phi khoa học, và cho rằng đó là căn bệnh “ấu trĩ tả khuynh” của những kẻ tiểu tư sản đội lốt cộng sản. Người chỉ rõ, chúng ta không sợ CNTBNN “CNTBNN vẫn là một bước tiến lớn… vì việc chiến thắng được tình hình hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan trọng hơn hết, vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một nguy cơ lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt vong (nếu chúng ta không chiến thắng nó) một cách dứt khoát, còn trả một khoản lớn hơn cho CNTBNN thì điều đấy không làm cho chúng ta bị diệt vong, trái lại có thể đưa chúng ta đến CNXH bằng con đường chắc chắn nhất” (Lênin toàn tập, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, tr.366-367).
Sử dụng CNTBNN rõ ràng là sự cần thiết khách quan đối với nước Nga Xô viết
bấy giờ. Tuy nhiên, Lênin đã chỉ rõ, việc cho phép phát triển các hình thức kinh
tế quá độ trong đó có CNTBNN cũng như việc sử dụng rộng rãi các quan hệ trao
đổi hàng hoá - tiền tệ theo tinh thần của NEP đó không phải là một sự đầu hàng
giai cấp tư sản, cho phép phục hồi tự do các quan hệ TBCN. Nhà nước chuyên
chính vô sản chỉ cho phép CNTB tồn tại ở mức độ cần thiết có lợi cho công cuộc
phục hồi kinh tế và xây dựng CNXH. Sử dụng NEP, trong đó bao gồm những biện
pháp cải tạo theo phương pháp hoà bình đối với các thành phần kinh tế TBCN và sản xuất nhỏ là một việc làm cần thiết và phù hợp với điều kiện
lịch sử nước Nga Xô viết bấy giờ. Song cũng cần xác định về mặt nguyên tắc đó
không phải là quá trình thủ tiêu đấu tranh giai cấp tiến tới chung sống hoà
bình với giai cấp tư sản và các thế lực đối kháng khác của giai cấp vô sản và nhân
dân lao động. Yêu cầu đặt ra là Nhà nước Xô viết phải biết sử dụng các hình
thức, phương pháp điều tiết, kiểm kê, kiểm soát không được để cho CNTB phát
triển một cách tuỳ tiện “Muốn không thay đổi bản chất của mình, Nhà
nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho thương nghiệp tự do và cho CNTB được phát
triển trong một chừng mực nhất định nào đó và chỉ với điều kiện là thương
nghiệp tư nhân và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết của Nhà nước (giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức, trật tự.v.v…)” (Lênin toàn tập, t.44, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, tr.418).
Trong
thực tiễn những năm 1920 ở nước Nga, những tư tưởng trên đây của Lênin về
CNTBNN đã được chính Người trực tiếp chỉ đạo, vận dụng vào quá trình cải tạo
XHCN đối với các thành phần kinh tế TBCN và sản xuất nhỏ. Có rất nhiều hình
thức khác nhau của CNTBNN đã được sử dụng như tô nhượng cho các nhà tư bản nước
ngoài, các xí nghiệp, cơ sở kinh tế, khai thác tài nguyên của nước Nga, cho
phép các nhà tư bản trong nước được tham gia các xí nghiệp của Nhà nước, lập
các công ty hợp doanh (hỗn hợp ngoại thương) giữa Nhà nước vô sản với các nhà
tư bản, tổ chức mạng lưới các hợp tác xã tư sản, các đại lý thương nghiệp trong
đó sử dụng các nhà tư bản hay tiểu thương.v.v…
Việc
sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của CNTBNN ở Nga những năm 1920 tuy rất đa
dạng và linh hoạt mà trên đây chưa thể kể hết được, nhưng thực tiễn đã cho thấy
chưa mang lại những kết quả mong muốn như dự định ban đầu của Lênin và Nhà nước
Xô viết. Nếu chỉ xét về mặt định lượng hiệu quả kinh tế đơn thuần, thì lợi ích
do CNTBNN mang lại chỉ là những con số đóng góp chưa đáng kể trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng này, trong
đó có một nguyên nhân rất quan trọng là các nhà tư bản đã thiếu thiện chí hợp
tác, không chịu đầu tư vốn vào nền kinh tế Liên Xô. Điều này dễ hiểu vì bấy giờ
xét trên phương diện tương quan lực lượng giữa nước Nga Xô viết với CNTB thế
giới, bọn tư bản quốc tế cùng với giai cấp tư sản phản động trong nước đã cấu
kết với nhau mong dùng bao vây cấm vận và phá hoại kinh tế để bóp chết Nhà nước
Xô viết non trẻ đầu tiên trên thế giới. Trong điều kiện như vậy, cùng với những
khả năng còn rất hạn chế của Nhà nước Xô viết về các kinh nghiệm và phương pháp
tổ chức, quản lý kinh tế, điều tiết hoạt động các xí nghiệp TBNN cũng như khả
năng cung cấp thường xuyên ổn định về tài chính, vật tư, nguyên liệu cho sản
xuất, hàng hoá cho lưu thông trong thương nghiệp còn rất khó khăn... Đó là
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến khả năng vận dụng lý luận CNTBNN của Lênin tất
nhiên còn bị hạn chế nhiều.
Thực
tiễn vận dụng lý luận Lênin về CNTBNN ở Việt Nam
Liên doanh với tư bản nước ngoài – hình thức kinh tế của CNTBNN
đang phổ biến ở Việt Nam (trong ảnh: một công ty liên doanh với Singapore
ở KCN Việt Nam-Singapore, tỉnh Bình Dương) - ảnh Trần Anh.
Kể từ khi Lênin khởi
xướng chính sách kinh tế mới (NEP), trong đó có việc sử dụng các hình thức kinh
tế quá độ của CNTBNN đến nay đã trải qua 89 năm với biết bao biến động chính
trị phức tạp của nước Nga và cả thế giới. Liên hệ với thực tiễn xây dựng CNXH ở
Việt Nam, ta thấy những năm trước 1975, một phần do bối cảnh lịch sử khi đó
phải tập trung sức người sức của cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là
chống Mỹ cứu nước, mặt khác có phần chủ yếu là do nhận thức về những nhiệm vụ
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta khi
đó còn chưa đúng đắn,
mang nặng tính chủ quan, duy ý chí nên đã “nóng vội” muốn “đốt cháy giai đoạn”
tiến thẳng lên CNXH, không trải qua thời kỳ quá độ (mặc dù chúng ta vẫn nói là
phải trải qua). Thực tế là chúng ta đã tiến hành cải tạo XHCN nhằm làm “trong
sạch” ngay nền kinh tế một cách vội vã theo hướng chỉ có tồn tại hai thành phần
quốc doanh, tập thể với loại hình sở hữu nhà nước và tập thể, còn sở hữu tư
nhân gắn với thành phần kinh tế tư nhân bị coi thường, không cho phát triển,
thậm chí có lúc nóng vội đòi xoá bỏ ngay. Tình hình này tiếp tục tái diễn sau
ngày 30/4/1975, ở miền Nam nước ta sau khi được giải phóng, cả nước thống nhất
năm 1976. Chính vì thế việc vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Lênin về chính
sách kinh tế mới cũng như việc sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của CNTBNN
ở miền Bắc trước 1975, ở miền Nam sau 1975 đến trước 1986 hầu như rất xem nhẹ,
nếu như không muốn nói là chúng ta không quan tâm cho phát triển. Hậu quả là
cùng với nhiều nguyên nhân khác nữa, kinh tế - xã hội Việt Nam khi đó không thể
phát triển được do lâm vào khủng hoảng và lạm phát kéo dài vì nền sản xuất xã
hội đình trệ trên tất cả các lĩnh vực khác nhau.
Chỉ đến những năm sau
đổi mới, kể từ Đại hội VI của Đảng ta (tháng 12/1986) cho đến nay, kinh tế nước
ta mới thực sự khởi sắc dần với những kết quả, thành tựu phát triển vượt bậc.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phát triển này, song chắc chắn phải kể đến một
nguyên nhân quan trọng là chúng ta đã nhận thức lại đúng đắn hơn về những nhiệm
vụ, biện pháp, bước đi thích hợp cần phải tiến hành mà trước hết về tư duy kinh
tế là phải thừa nhận sự tồn tại khách quan những đặc điểm vốn có của một nền
kinh tế đang trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Điều đó có nghĩa phải thừa
nhận về mặt biện pháp, chính sách kinh tế là phải vận dụng một cách đúng đắn,
sáng tạo những tư tưởng chỉ đạo của Lênin về “NEP”, về CNTBNN mà trước hết là
thừa nhận sự tồn tại khách quan của một nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh
các thành phần XHCN còn có cả các thành phần phi XHCN, hay như cách nói của
Lênin là có cả “những mẩu, những mảnh của CNTB, của nền sản xuất nhỏ…”. Từ Đại
hội VI và lần lượt trải qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và Đại hội X (tháng
4/2006), theo tiến trình đổi mới hơn 20 năm qua, giờ đây nhìn lại tuy có những
điểm khác biệt do thời đại ngày nay đã khác thời đại Lênin thực thi “NEP” những
năm 1920 ở nước Nga, song nếu xem xét kỹ lại những tư tưởng chỉ đạo của Lênin
trước đây, ta thấy có nhiều điểm về cơ bản vẫn là ta đã và đang vận dụng “NEP’,
sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của CNTBNN. Thể hiện ở một số nội dung cơ
bản sau:
- Chúng ta đã thực
hiện phát triển mạnh một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có nghĩa
là tôn trọng quy luật giá trị, tôn trọng các quy luật vận động khách quan khác
của các quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá - tiền tệ trong nền kinh tế thị
trường, kể cả trong các lĩnh vực kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, nhưng
cần tuân thủ sự phát triển bền vững theo định hướng XHCN do Đảng và Nhà nước ta
đề ra.
- Thừa nhận sự tồn
tại và phát triển khách quan của một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần với
sự tồn tại đan xen nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Tại Đại hội VI, chúng ta
mới thừa nhận CNTBNN là các hình thức kinh tế quá độ. Đến Đại hội VII, trở đi
CNTBNN đã được coi là một thành phần kinh tế. Không chỉ thế, kể cả tư bản tư
nhân cũng từ Đại hội VII ta đã thừa nhận đó là một thành phần kinh tế. Xét
riêng về các loại hình liên quan đến thành phần kinh tế tư bản nhà nước đang
tồn tại ở nước ta hiện nay có thể kể ra một số hình thức khác nhau mà ngay thời
Lênin đã có như tô nhượng trước đây mà nay là công ty đầu tư có vốn nước ngoài
100%, liên doanh đầu tư giữa nhà nước với tư bản nước ngoài hoặc giữa nhà nước
với tư bản trong nước mà thời Lênin gọi chung là hợp doanh, liên doanh giữa nhà
nước với tư bản tư nhân thông qua một số loại hình công ty tư nhân, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… Tuy nhiên theo như cách phân định của Đảng
ta tại Đại hội X thì đã có sự đổi khác. Tư bản nhà nước vẫn được khẳng định là
một thành phần kinh tế, nhưng nét mới khác với thời Lênin trước đây là không bao
gồm cả các loại hình kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài đã được Đảng ta phân định là một thành phần kinh tế riêng biệt. Như
vậy là ở nước ta hiện nay theo như sự phân định của Đại hội X, có 5 thành phần
kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân ), kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Cả 5 thành phần kinh tế này đều được tự do phát triển, bình đẳng trước
pháp luật.
- Từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng
xoá bỏ sự tập trung quan liêu bao cấp của Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế
và mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế, quan tâm đến động lực lợi ích
cá nhân, khuyến khích tự do phát triển sản xuất, tự do buôn bán, tự do làm giàu
chính đáng, đúng pháp luật…
Điểm khác biệt trong
việc thực thi NEP cũng như vận dụng lý luận CNTBNN ở nước ta những năm đổi mới
vừa qua so với nước Nga Xô viết của thời Lênin là ở chỗ: Thời Lênin do mới chỉ
có nước Nga Xô viết là nước XHCN duy nhất lại bị CNTB thế giới bao vây, chống
đối, vì thế chưa thể mở rộng các quan hệ đối ngoại và kinh tế quốc tế như nước
ta hiện nay. Thực tế này, khiến ta có thể hiểu được vì sao khi đó, mặc dù Lênin
đề cao NEP, đề cao vị trí, vai trò của các loại hình kinh tế tư bản nhà nước và
kể cả kinh tế tư bản tư nhân, song Lênin vẫn luôn giữ vững nguyên tắc đề cao
độc quyền ngoại thương của Nhà nước Xô viết, không cho tư nhân và nhất là càng
không cho các tư bản thương nghiệp được làm chủ trận địa này. Điều này với Việt
Nam và kể cả một số nước phát triển theo định hướng XHCN như Trung Quốc, Lào,
Cu Ba hiện nay là không như vậy, nghĩa là vẫn mở rộng hoạt động ngoại thương
đối với tất cả các thành phần kinh tế khác nhau, kể cả kinh tế tư nhân, tư bản
tư nhân, tư bản nhà nước, miễn là tuân thủ đúng pháp luật Nhà nước và thông lệ
quốc tế.
Tóm
lại, vì đặc điểm thời đại ngày nay khác với thời đại nước Nga Xô viết những
năm 1920, do đó sắc thái vận dụng NEP với việc sử dụng các hình thức kinh tế
quá độ của CNTBNN ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua có khác trước, Song
nếu xét về bản chất khoa học của vấn đề, có thể khẳng định hệ thống lý luận của
Lênin về NEP nói chung và việc sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của CNTBNN
nói riêng về cơ bản là không thay đổi và do đó ý nghĩa khoa học và thực tiễn
của nó vẫn còn sáng mãi đến ngày nay. Vấn đề quan trọng đặt ra là chúng
ta cần nhận thức đúng đắn di sản “CNTBNN” trong toàn bộ hệ thống di sản lý luận về “NEP”, về
“Xây dựng CNXH” của Lênin về để từ đó vận dụng năng động, sáng tạo, phù hợp với
yêu cầu phát triển thực tiễn hiện nay của nước ta trong bối cảnh hội nhập toàn
cầu theo định hướng chỉ đạo của Đại hội X và sắp tới là tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện hơn nữa sự vận dụng đó trong định hướng sẽ được toàn Đảng, toàn dân trực
tiếp bàn thảo, tiến tới thống nhất quan điểm nhận thức trong các dự thảo Văn
kiện trình Đại hội XI của Đảng./.
Nguồn: http://cpv.org.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét