Trương Quốc Chính
Mọi nhà nước đều có chức năng giai cấp và chức năng
xã hội. Giữa hai chức năng này luôn có mối quan hệ biện chứng. Với Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất.
Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện để Nhà nước xã hội chủ
nghĩa bảo đảm và giữ vững địa vị thống trị xã hội về phương diện chính trị, đảm
bảo quyền dân chủ cho nhân dân, xây dựng cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện
trên thực tế. Những nhiệm vụ cơ bản thể hiện chức năng xã hội đó của Nhà nước
ta hiện nay là: Thứ nhất, không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân; thứ hai, tổ
chức và quản lý kinh tế; thứ ba, tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học và giáo dục.
(Ảnh minh họa)
1. Chức năng cơ bản của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa
Chúng ta đều biết, chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể hiện bản chất của nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng của nhà nước được đề cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới hạn ở phạm vi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị mà theo đó, bất kỳ nhà nước nào cũng đều có chức năng thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội.
Theo quan niệm chung, chức năng giai
cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của
một giai cấp nhất định. Mọi nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ công cụ, biện
pháp nào có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Còn chức năng xã
hội của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản
lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một
số công việc chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải
hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản
lý của nó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước
trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà quản
lý những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã
hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và lợi
ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan
điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà
nước đó thực hiện vai trò thống trị giai cấp của nó. Nói về mối quan hệ biện
chứng giữa hai chức năng này, Ph.Ăngghen viết: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là
cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài
chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”(1).
Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và
quan trọng nhất của nó. Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô
sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là
bạo lực, mà mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng
với việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Ông viết: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ
quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân,
cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”(2).
Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vô sản, theo quan điểm mácxít, tự nó
đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực
chất, là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong
nhà nước này, nền dân chủ phải là nền dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và
thực chất nhất - đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã
hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ
không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một
cách đầy đủ và không ngừng mở rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm
ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy
trong thực tiễn...”(3) đã được V.I.Lênin coi là một trong những
nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật
của sự phát triển và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã
hội không còn các giai cấp đối kháng, nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện
hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có
sự thay đổi căn bản. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử,
nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình,
trước hết phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng
dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm
tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội
là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ
vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để
trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều
này có nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ
biện chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều
kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của mình,
thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức năng xã hội
(mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là nhiệm vụ cơ bản,
quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước
xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, nhà nước tư bản chủ
nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư cách là mục đích, mà là
phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của thiểu số
trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai cấp công nhân và những
người lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư
bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong một phạm vi chật hẹp và bị chi phối bởi
quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ những lợi ích kinh tế và chính trị
ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội. Ngược lại, việc thực hiện chức
năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác định là mục đích chứ không
phải là phương tiện để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức
năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại
đa số những người lao động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó
được thực hiện một cách thực sự trong thực tế.
2. Một số nhiệm vụ cơ bản thể hiện
chức năng xã hội của nhà nước ta
2.1. Không ngừng mở rộng dân chủ cho
nhân dân
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do
nhân dân làm chủ và do vậy, nhà nước của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện
để cho nhân dân tham gia một cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội. Trong mọi hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu
tranh không khoan nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do
dân chủ của nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ
thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa
và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm
quyền dân chủ của nhân dân”(4).
Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta,
thực hiện dân chủ là thực chất, là mục tiêu, động lực của việc đổi mới và kiện
toàn hệ thống chính trị nói riêng, của công cuộc đổi mới nói chung. Đây là
nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách của thực tế xây dựng Nhà nước ta
hiện nay. Bởi lẽ, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể giữ vững và phát huy bản
chất tốt đẹp của Nhà nước ta nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo
đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà
nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Chính quyền có trong
sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh và có hiệu lực. Chỉ có dựa vào
sức mạnh của nhân dân thì mới xây dựng được chính quyền trong sạch, giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, an ninh, quốc phòng để từ đó, tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định: “Mở rộng dân
chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ
và trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật; khắc phục
tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối”(5).
Nhiệm vụ này cũng đã được chúng ta
thể chế hoá cụ thể trong Hiến pháp: “Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình
ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo
vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng”(6). Chính
điều đó đã phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho người dân vừa thực
hiện quyền làm chủ gián tiếp thông qua nhà nước, vừa làm chủ trực tiếp ở cơ
sở.
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quyền
lực nhà nước đều do dân bầu ra, chính quyền nhà nước đã trở thành công cụ sắc
bén và có hiệu quả nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, đó là dân chủ đại diện (dân
chủ gián tiếp). Quyền làm chủ của nhân dân còn được thực hiện một cách trực
tiếp thông qua việc tham gia vào công việc tổ chức nhà nước, tham gia bộ máy
nhà nước, quyết định các chủ trương, chính sách của Nhà nước ở các cấp... Tuy
nhiên, mức độ thực hiện dân chủ trực tiếp còn phụ thuộc vào phẩm chất, trình
độ, năng lực của chính quyền nhà nước; vào trình độ dân trí, trước hết là trình
độ văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật; vào đặc điểm lịch sử và truyền thống
chính trị của dân tộc... Như vậy, thực hiện dân chủ phải là một quá trình lâu
dài, từ thấp đến cao. Không thể và không bao giờ có “dân chủ tuyệt đối” hay
“dân chủ nói chung”, đặc biệt là không thể có ngay và trên mọi mặt dân chủ trực
tiếp trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, nhất
là về kinh tế. Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, đồng thời thực hiện chế độ dân
chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng, có hiệu quả. Phát huy quyền làm
chủ của nhân dân thông qua đại biểu của mình (dân chủ gián tiếp), đồng thời
phát huy cao độ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân thông qua các tổ chức quần
chúng, xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở. Cụ thể là:
- Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các
cơ quan dân cử; nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội,
Hội đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân,
là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước và của từng địa phương. Từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới và thực hiện dân chủ hoá, các cơ quan Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã có
những chuyển biến tích cực, gần gũi hơn với cử tri, tại các kỳ họp của các cơ
quan này, nhiều vấn đề đã được đưa ra thảo luận một cách thẳng thắn, công khai,
nhiều ý kiến của cử tri được tiếp thu và thảo luận nghiêm túc, công tác kiểm
tra, giám sát đối với các quyết định của các cơ quan đó cũng được đẩy mạnh...
Tất cả những điều này đã nhận được sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân.
- Đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ
tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân.
- Xác định rõ trách nhiệm của thủ
trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Nghiên cứu thực hiện từng bước chế
độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở.
2.2. Tổ chức và quản lý kinh tế
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt
đầu từ một nền kinh tế chậm phát triển, còn phổ biến là sản xuất nhỏ, nên nhiệm
vụ tổ chức, quản lý kinh tế của nhà nước là hết sức khó khăn, phức tạp, chính
vì thế mà nhiệm vụ phát triển kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt và là một
nhiệm vụ khá mới mẻ. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ của
lực lượng sản xuất còn thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ
giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn định
và cải thiện không ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây
dựng của Nhà nước ta càng trở nên nặng nề. Trong các Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, thứ VIII, thứ IX và mới đây, lần thứ X, Đảng ta đã ngày
càng cụ thể hoá những tư tưởng, quan điểm lớn về phát triển kinh tế đất nước:
phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thiết
lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức sở
hữu; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
“những hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(7); thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế là chủ yếu; phát huy mạnh mẽ vai trò của khoa học và công nghệ; mở rộng và
nâng cao hiệu
quả hợp tác đầu tư, kinh tế đối
ngoại; v.v..
Xuất phát từ tình hình hiện nay và
yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế thể hiện rõ
nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được Đảng
ta xác định là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh
tế tri thức; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững;…
2.3. Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa
học, giáo dục
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
phát triển toàn diện”(8). Để có thể xây dựng thành công một xã hội
như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải tổ chức, quản lý sự nghiệp
giáo dục, văn hoá, phát triển khoa học và công nghệ - đó được coi là “quốc sách
hàng đầu” để phát huy nhân tố con người. Thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xây
dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới, nền khoa học và công nghệ
hiện đại - đó cũng chính là những động lực quan trọng hàng đầu của sự nghiệp
xây dựng xã hội mới. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ này được biểu hiện cụ
thể ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng và
phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá
tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; thực hiện lối
sống cần kiệm, văn minh, bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác,
chống lại mọi biểu hiện của các loại văn hoá ngoại lai không lành mạnh.
Thứ hai, phát triển khoa học và công nghệ với
bước đi và hình thức thích hợp, bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết định quan
trọng của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, coi đó là công cụ chủ yếu để nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội .
Thứ ba, đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội
ngũ cán bộ, trí thức và những người lao động có tri thức, có tay nghề, có đạo
đức cách mạng và tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với đó là việc
giáo dục thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho toàn thể nhân dân;
đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm xét lại, cơ hội,
những luận điệu xuyên tạc, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nhân dân ta.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định phát triển khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là một trong những lĩnh vực chủ yếu. Theo đó, việc tổ chức, quản lý văn
hoá, khoa học và giáo dục của Nhà nước ta vừa là để thực hiện những nhiệm vụ
kinh tế - xã hội trước mắt, vừa là để chuẩn bị cho đất nước bước vào giai đoạn
phát triển tiếp theo, hoà nhập (trên cơ sở giữ vững bản sắc riêng và tinh hoa
văn hoá của dân tộc) với tiến trình phát triển chung của nền văn hoá, khoa học
và giáo dục thế giới. Quan điểm cơ bản của Đảng ta coi văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội; giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu đã thể hiện rõ ràng nhiệm vụ này của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng hệ thống
các cơ quan tổ chức, quản lý văn hoá, văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo dục,
các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có phẩm
chất chính trị, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời xây dựng hệ thống
cơ sở vật chất - kỹ thuật tương xứng với yêu cầu và đáp ứng tốt yêu cầu thực tế
của các lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, xét một cách tổng thể, nhiệm
vụ sáng tạo và xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ quan trọng nhất trong chức năng
xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
duy vật biện chứng, xét đến cùng, có thể nói, nhiệm vụ cơ bản và quyết định của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế, bởi một xã
hội chỉ có thể ổn định, vận động và phát triển được khi có một cơ sở kinh tế -
xã hội phù hợp. Yếu tố kinh tế, nhất là lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là
yếu tố quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xem
xét vấn đề này ở góc độ kiến trúc thượng tầng của xã hội - xây dựng nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do và không
ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi việc thực
hiện nhiệm vụ này là sự thể hiện trực tiếp nhất bản chất của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa.
(*)Thạc sĩ triết học, Học viện Hành chính Quốc gia.
(1) C.Mác
và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr. 253.
(2)
V.I.Lênin. Toàn tập, t.33. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 110.
(3)
V.I.Lênin. Sđd., t.33, tr. 97.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991,
tr. 19.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1997, tr. 43.
(6) Hiến
pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr. 140.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.77.
(8) Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.68.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét