Ái Nhi
Sinh thời,
Bác Hồ luôn quan tâm tới sự hy sinh cao cả của các anh hùng, thương binh, liệt
sĩ. Đó là những con người dũng cảm xả thân cho Tổ quốc được độc lập, tự do;
cống hiến cả tuổi xanh của mình cho tương lai đất nước. Người nêu rõ: “Máu
đào của các thương binh, liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy
sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết
trái tự do”. Cảm thông với những thiệt thòi của thương binh, liệt sĩ và
gia đình họ trong cuộc sống hoà bình, Bác đã kêu gọi đồng bào chia sẻ với những
tâm tư, mất mát lớn của thương binh, liệt sĩ.
Bác Hồ với anh hùng và chiến sĩ thi đua miền Nam (tháng 11/1965). Ảnh: TL
Ngay từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước đang trong cảnh thù trong, giặc ngoài “nghìn cân treo sợi tóc”, Bác luôn nghĩ đến công ơn của các thương binh, liệt sỹ. Với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn. Nhân dân Nam Bộ chưa kịp hưởng niềm vui độc lập và cuộc sống thanh bình lại phải tiếp tục vùng lên cứu nước. Để bảo vệ Tổ quốc thân yêu, rất nhiều người con ưu tú của dân tộc đã hiến dâng tuổi thanh xuân và cả cuộc đời của mình cho đất nước. Họ đã ngã xuống trên chiến trường miền Nam hoặc khi trở về đã mang thương tật suốt đời vì nền độc lập, tự do và thống nhất đất nước.
Tháng
12/1945, trong thư “Gửi các chiến sĩ Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ” Bác tin
tưởng rằng: “Với một nước đã có những người con hy sinh như thế, anh
hùng như thế, đã có một khối toàn dân đoàn kết như thế, nước ta nhất định không
mất lại một lần nữa. Để bảo vệ Tổ quốc, chúng ta còn phải chiến đấu nhiều. Chỉ
có chiến đấu mới vượt được những trở lực, khó khăn, chỉ có chiến đấu mới đưa
lại vẻ vang cho Tổ quốc. Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả
một khối đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”.
Nhằm chia sẻ nỗi đau của hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc ông bà,
cha mẹ, những người chồng, người vợ và những người con đã mãi mãi không thể gặp
lại những người thân yêu nhất của mình, trong bức thư đăng trên báo Cứu quốc
ngày 7/1/1946, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và
Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập,
thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mạng, hoặc trong thời kỳ kháng
chiến, tôi gửi lời chào thân ái đến các gia đình liệt sỹ và tôi nhận các con
liệt sỹ làm con nuôi của tôi”.
Ngày
10/3/1946, Báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ.
Trong thư có đoạn: “Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã
bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc tranh đấu cho nước nhà.
Sự hy sinh đó không phải là uổng”. Tiếp sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại
viết: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam,
đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh”.
Hơn nửa tháng
sau khi đi Pháp về, ngày 7/11/1946, Người đã đến dự lễ “Mùa đông binh sĩ” do
Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, vận
động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền của để may áo trấn thủ cho chiến sĩ,
thương binh, bệnh binh. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã thu hút nhiều
thanh niên nam nữ tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một
số nữa là thương binh, bệnh binh; đời sống gặp nhiều khó khăn, mặc dầu anh chị
em tình nguyện chịu đựng, không kêu ca, phàn nàn.
Để nhân dân
cả nước có dịp bày tỏ lòng biết ơn tới các thương binh và gia đình liệt sĩ,
tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm
ngày “Ngày Thương binh”. Thực hiện chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị gồm
đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh họp ở Phú Minh, Đại
Từ, Thái Nguyên nhất trí lấy ngày 27/7/1947 là “Ngày Thương binh, Liệt sĩ”.
Trong dịp
này, báo Vệ quốc quân ra ngày 27/7/1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi ban thường trực của Ban tổ chức “Ngày Thương binh, Liệt sỹ toàn quốc”. Đầu
thư, Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả,
đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp; cha mẹ, anh em, vợ con, thân
thích, họ hàng ta bị đe doạ. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc
ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ
gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương
binh”.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh giải thích: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy
sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu,
què quặt. Vì vậy, Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con
anh dũng ấy”. Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ
thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và
tiền ăn một bữa của Người và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch; tổng cộng
là 1.127 đồng để tặng thương binh.
Ngày 27/7/1948, trong một thư dài đầy tình thương yêu, Bác chia sẻ:
"Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe doạ
tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm
đắm cả bố, mẹ, vợ con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu
quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp
thành một bức tường đồng, một con đê vững; để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập
Tổ quốc, làm hại đồng bào”.
Người viết: “Họ
quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống… Ngày nay, bố mẹ họ
đã mất một người con yêu quý. Vợ trẻ thơ trở nên bà goá. Con dại trở nên bồ
côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sỹ… Nhưng tay chân tàn phế
của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ không thể tái sinh”.
Những việc
làm của Bác không chỉ là sự tiếc thương mà còn thể hiện sự tự hào, gợi lên tinh
thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người
đã hy sinh sự sống của mình cho độc lập của Tổ quốc. Người đã gắn sự tổn thất
lớn lao của những thương binh, liệt sĩ vào ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của
những người được sống trong hòa bình.
Tháng 5/1968,
mặc dù đang ốm mệt, Người vẫn đọc lại bản thảo Di chúc và viết bổ
sung thêm một số nội dung gồm 6 trang viết tay, trong đó có đoạn về thương
binh, liệt sĩ: "Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố,
làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các
liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đối với cha
mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu,
thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã
nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ
bị đói rét".
Thực
hiện Di chúc của Người, các cấp chính quyền và đoàn thể xã hội đã có
những chính sách ưu tiên đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Đồng bào ta trên khắp mọi miền của Tổ quốc cũng đã làm nhiều việc để đền ơn đáp
nghĩa như: tặng quà cho các gia đình chính sách, xây dựng nhà tình nghĩa, lập
Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng các mẹ Việt Nam Anh hùng, ủng hộ và giúp đỡ
các nạn nhân nhiễm chất độc da cam, giúp đỡ thương, bệnh binh và gia đình liệt
sĩ, tìm mộ liệt sĩ…
Nguồn: https://codotphcm.com/tintuc/chitiet/nhung-cau-chuyen-ve-bac-ho-voi-thuong-binh-liet-si-388.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét