Thứ Hai, 13 tháng 7, 2020

Quan niệm duy vật về lịch sử trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị của C.Mác

TS. Trần Sỹ Phán
Nguồn: Internet
Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị được C.Mác viết từ tháng Tám 1858 đến tháng Giêng 1859, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong việc hình thành khoa kinh tế chính trị học mácxít. Với tác phẩm này, lần đầu tiên, C.Mác trình bày một cách khoa học và tương đối đầy đủ, có hệ thống quan niệm của mình về hàng hoá, tiền tệ. Luận giải một cách khá thuyết phục về vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị, C.Mác đã đặt nền tảng cho việc giải thích một cách khoa học bản chất của chế độ bóc lột trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Từ đầu năm 1857, với nhiệt huyết tràn đầy, với sự thôi thúc của nội tâm và của phong trào cách mạng, C.Mác đã dồn hết tinh lực vào việc nghiên cứu kinh tế chính trị học. Trong một bức thư gửi cho Ph.Ăngghen, C.Mác đã viết: "Tôi làm việc như thằng điên thâu đêm tổng kết những công trình nghiên cứu kinh tế của tôi để có được sự sáng tỏ ít ra là trong những vấn đề cơ bản từ thời thượng cổ"(1).
Để viết Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác đã bỏ ra một khoảng thời gian tương đố dài (khoảng 20 năm) để nghiên cứu một khối lượng lớn các tác phẩm kinh tế, xã hội. Qua các cuốn sổ ghi chép và trích dẫn, chúng ta có thể thấy được trong khoảng thời gian đó, ông đã thường xuyên đến Viện bảo tàng Anh, nơi có một trong những thư viện lớn và đầy đủ sách thuộc vào loại bậc nhất thế giới lúc bấy giờ để đọc, nghiên cứu sách báo chuyên ngành và lấy ra những đoạn trích dẫn cần thiết. Lượng sách báo mà C.Mác đã đọc, theo ước tính, vào khoảng trên 1.500 cuốn sách, trong số đó, khoảng 800 tác phẩm đã được ông trích dẫn khi viết bộ Tư bản. Bốn mươi năm sau, Vinhem Liếpnếch, khi nhớ lại thời kỳ này đã viết: "Mác làm việc vào bất cứ lúc nào có thể được. Ngay cả khi đi dạo chơi, ông cũng mang theo sổ ghi chép và cứ chốc chốc lại ghi vào sổ. Ngay cả lúc nửa đêm, ông cũng thường tỉnh dậy để ghi lại những ý nghĩ nảy ra trong óc hoặc để sửa chữa lại những ý đã ghi lúc ban ngày"(2).
Sau một thời gian thu thập tài liệu, tháng Tám 1857, C.Mác tiến hành hệ thống hoá các tư liệu mà ông đã thu thập được để chuẩn bị cho việc viết một tác phẩm lớn về lĩnh vực kinh tế chính trị học. Mùa Xuân 1858, khi bước vào độ tuổi 40, do làm việc quá sức, kinh tế gia đình gặp khó khăn, C.Mác đã lâm bệnh đau gan nặng. Nhưng với niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản, với nghị lực phi thường, C.Mác đã vượt qua số phận hiểm nghèo để tiếp tục theo đuổi công việc nghiên cứu kinh tế chính trị học. Đầu năm 1858, C.Mác quyết định công bố kết quả nghiên cứu của mình thành từng tập riêng. Từ tháng Tám 1858 đến tháng Giêng 1859, ông tiếp tục sửa chữa, bổ sung và hoàn chỉnh chương về tiền tệ, viết tiếp chương về hàng hoá, biên tập lại bản thảo và quyết định đặt tên cho cuốn sách là Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị. Ngày 26 tháng Giêng 1859, C.Mác gửi tới một nhà xuất bản ở Béclin bản thảo cuốn sách này và tháng hai 1859, C.Mác gửi thêm phần Lời tựa. Tháng Sáu 1859, Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị được phát hành. Những luận điểm cơ bản trong tác phẩm này đã được C.Mác sử dụng trong việc viết bộ Tư bản sau này.
Những quan niệm duy vật về lịch sử trong tác phẩm này được C.Mác thể hiện một cách sâu sắc và khá thành công trong cả hai chương (chương về hàng hoá và chương về tiền tệ - hay lưu thông giản đơn), nhưng rõ nét và cô đọng nhất là trong Lời tựa của tác phẩm.
Trong quá trình nghiên cứu triết học Hêgen (đặc biệt là triết học pháp quyền) đã đưa C.Mác đến kết luận: "Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất"(3).
Trong thời gian ở Pari và Brúcxen, C.Mác đã tập trung nghiên cứu khoa kinh tế chính trị để tìm hiểu, "giải phẫu xã hội công dân" (như cách nói của người Anh và người Pháp hồi thế kỷ XVIII). Kết quả của sự nghiên cứu này đã giúp C.Mác đi đến kết luận mà theo C.Mác, "đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này" của ông, đó là: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng"(4). Chúng ta có thể coi đây là một công thức thiên tài về thực chất của quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác.
Điểm thứ nhất trong công thức này của C.Mác là: sự tồn tại khách quan của quan hệ sản xuất. Khi khẳng định "trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất", C.Mác đã chỉ rõ: trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không chỉ quan hệ với giới tự nhiên, để tiến hành sản xuất và làm ra của cải vật chất nuôi sống mình, con người, dù muốn hay không, cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau - những quan hệ sản xuất mang tính "tất yếu" và "không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ". Với tính cách là quan hệ kinh tế khách quan, quan hệ sản xuất là quan hệ mang tính vật chất, thuộc đời sống xã hội và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Đây là sự khác nhau căn bản, khác nhau về chất không chỉ trong triết học, mà cả trong kinh tế chính trị học mácxít với kinh tế chính trị học tư sản. Nếu như các nhà kinh tế học tư sản coi tư bản là toàn bộ các vật (chỉ có tư liệu sản xuất không thôi) thì ngược lại, C.Mác cho rằng tư bản là một quan hệ sản xuất nhất định, có tính chất xã hội, thuộc về một hình thái xã hội nhất định trong lịch sử; nó được biểu hiện trong một vật và đem lại cho vật đó một tính chất xã hội đặc thù, chứ không chỉ đơn thuần là vật.
Điểm thứ hai là về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là một trong những tư tưởng hết sức cơ bản của C.Mác trong tác phẩm này. Khi nghiên cứu, luận giải quá trình vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác chỉ rõ: những quan hệ sản xuất luôn phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất, nhưng "tới một giai đoạn phát triển nào đó", các lực lượng sản xuất vật chất này trở nên mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có và từ chỗ là "những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng". Theo Ph.Ăngghen, kết luận này của C.Mác mang một ý nghĩa cách mạng to lớn "không những đối với lý luận, mà cả đối với thực tiễn nữa" và nếu chúng ta "đem vận dụng nó vào thời đại hiện nay, thì lập tức cái triển vọng của một cuộc cách mạng vĩ đại, liền mở ra ngay trước mắt chúng ta"(5).
Điểm thứ ba, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội - đó là một cách tiếp cận lịch sử đặc sắc của C.Mác. Khi khẳng định toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, hợp thành cơ sở hiện thực mà trên đó, "dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó", C.Mác đã đề cập đến những bộ phận hợp thành của hình thái kinh tế - xã hội, như cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, đến mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng... và cuối cùng, ông đã đi đến kết luận: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".
Điểm thứ tư là về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Đây là một trong những cống hiến quan trọng của C.Mác trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao và xây dựng quan niệm nhất nguyên duy vật về lịch sử. C.Mác đã luận giải một cách khoa học và đầy thuyết phục rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, do đời sống vật chất chi phối. "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung"; rằng "không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ", mà trái lại, "tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ". Ph.Ăngghen cho rằng, luận điểm này của C.Mác là "một phát minh có tác dụng cách mạng hoá không chỉ đối với môn kinh tế chính trị, mà còn đối với tất cả các môn khoa học lịch sử nữa" và nó "cũng đã giáng một đòn chí mạng vào mọi thứ chủ nghĩa duy tâm, ngay cả đối với chủ nghĩa duy tâm ẩn giấu nhất"(6). Để nhận định về một thời đại lịch sử, theo C.Mác, người ta không thể căn cứ vào ý thức của thời đại ấy, mà trái lại, "phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội"(7).
Những kết luận được rút ra trong Lời tựa cũng như trong toàn bộ tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị là "kết quả của những sự nghiên cứu trung thực trong nhiều năm" của C.Mác. Từ Hệ tư tưởng Đức mà bản thảo phải để cho "sự phê phán gặm nhấm của chuột" đến Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,  từ Diễn văn về tự do buôn bán đến Sự khốn cùng của triết họcvà Lao động làm thuê (những tác phẩm có liên quan trực tiếp được C.Mác đề cập trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị) đã giúp cho C.Mác tiến xa hơn trong việc nghiên cứu lịch sử xã hội loài người. Liên quan trực tiếp đến tác phẩm này còn có hai tác phẩm khác. Một là Lời nói đầu góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị do C.Mác viết vào cuối tháng Tám đến giữa tháng Chín 1857. Đây là bản phác thảo chưa hoàn thành của Lời nói đầu chung, đồng thời cũng là bản sơ thảo của hai tác phẩm kinh tế lớn mà trong đó, C.Mác dự định nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và phê phán những điểm không hợp lý của khoa kinh tế chính trị tư sản là Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị và Tư bản. Trong Lời nói đầu góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, nhiều vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã được C.Mác đề cập. Đặc biệt, ở đây, C.Mác đã đưa ra quan niệm của ông về con người. C.Mác viết: "Con người, theo nghĩa đen của nó, là một động vật xã hội (Arixtốt) không những là một động vật vốn có tính hợp quần, mà còn là một động vật chỉ có thể tách riêng ra trong xã hội mà thôi"(8).
Hai là, "C.Mác. Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị" do Ph.Ăngghen viết từ ngày 3 đến ngày 15 tháng Tám 1859, đăng trên báo "Das Volk" số 14 và 16, ngày 16 và 20 tháng Tám 1859. Đây là bài điểm sách mà Ph.Ăngghen chưa viết xong, bài này chỉ được công bố hai phần đầu, còn phần thứ ba, Ph. Ăngghen dự định phân tích nội dung kinh tế đã được C.Mác đề cập trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm thấy. Theo Ph.Ăngghen, từ trước đến nay, kể cả môn học tài chính - kinh tế Đức, đều chỉ là "một món hổ lốn tạp nham đủ thứ, có rưới thêm một thứ nước chấm kinh tế học chiết trung"(9). Chỉ từ khi Đảng Vô sản Đức bước lên vũ đãi, thì thời điểm của môn kinh tế chính trị khoa học độc lập của người Đức mới bắt đầu.
Môn kinh tế chính trị Đức đó, về thực chất, dựa trên nhận thức duy vật về lịch sử mà những nét cơ bản đã được trình bày một cách vắn tắt trong Lời tựa của Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị của C.Mác. Và, như Ph. Ăngghen nhấn mạnh, quan niệm duy vật đó "vẫn xuyên qua như một sợi chỉ đỏ tất cả mọi trước tác của đảng"(10). Cũng trong tác phẩm này, Ph. Ăngghen đã đưa ra một nhận xét có tính chất phương pháp luận, đó là: "Lịch sử thường phát triển qua những bước nhảy vọt và những bước khúc khuỷu quanh co". Đồng thời, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng, việc phê phán khoa kinh tế chính trị nói riêng, nghiên cứu sự vận động và phát triển của xã hội loài người nói chung, cần phải kết hợp phương pháp nghiên cứu lôgíc với phương pháp nghiên cứu lịch sử, mặc dù phương pháp lôgíc là phương pháp thích hợp nhất, nhưng về thực chất, "phương pháp này chẳng qua cũng chỉ là phương pháp lịch sử, có điều là đã thoát khỏi hình thái lịch sử và khỏi những hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại thôi. Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó"(11).
Tóm lại, những quan niệm duy vật về lịch sử được C.Mác thể hiện trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị đã đóng một vai trò to lớn trong việc củng cố thế giới quan cách mạng và khoa học cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức, bất công, mọi sự nô dịch tư bản. Những luận điểm khoa học ấy, cho đến nay, vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử của nó.


(*) Tiến sĩ, Khoa Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.29. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.290.
(2) H.Ghemcốp. Cuộc đời chúng tôi. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.252.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.14.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.14 -15.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.607.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.607 - 608.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.15.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.12, tr.855.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.606.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.608.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.614.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét